3.
Có lẽ vì ta suốt đường ôm chặt bọc hành lý, khiến người chèo thuyền nghĩ rằng bên trong là báu vật. Hắn thấy ta là một nữ tử yếu đuối, bèn sinh lòng tham, giật lấy không chịu buông.
Ta sợ làm rách hôn thư, không dám tranh giành mạnh mẽ, liền không màng nam nữ khác biệt, nắm chặt hắn không buông, dù làm rách tay áo, lộ cả cổ tay cũng quyết không chịu thả.
Ngày xuân hôm đó, nắng rất đẹp, trên chiếc họa thuyền, đám công tử nhà giàu đang thưởng xuân và vẽ tranh.
Không biết ai đó vén rèm lên, nhìn thấy cảnh ồn ào bên ngoài, liền cười đùa đặt cược:
“Ta đoán là báu vật cổ!”
“Ta đoán là trâm cài bằng châu ngọc!”
Lúc ấy, trên sông vẫn còn băng vụn đầu xuân, ta suýt bị kéo xuống nước.
Một thiếu niên mặc áo tím không nhịn được nữa, bước ra ngăn cản tên chèo thuyền, yêu cầu cả hai nói rõ trong bọc có gì để phân giải.
Tên chèo thuyền giơ tay định đẩy hắn, nhưng hắn lại liếc nhìn từ trên cao, khẽ rung thanh kiếm bên hông, khiến tên chèo thuyền sợ đến mức không dám nói thêm lời nào.
Khi ấy, ta nhìn hắn và thầm nghĩ, nhành liễu trong tay Quan Âm cứu khổ cứu nạn hẳn cũng có thể biến thành thanh kiếm trước mắt, thanh kiếm khiến kẻ ác khiếp đảm này.
Ngay cả bạn của thiếu niên áo tím cũng bị khơi dậy hứng thú, vây lại xem:
“Rốt cuộc là thứ gì mà cô nương này nắm chặt đến rách cả áo, chẳng màng thể diện?”
Khi mở bọc ra, bên trong chỉ có vài khối bạc vụn và một tờ hôn thư đã ố vàng.
Vài khối bạc vụn là tiền ăn ở của ta trong vài ngày tới ở kinh thành.
Tờ hôn thư ố vàng ấy có lẽ có thể đổi lấy một tương lai tốt hơn.
Mỗi thứ đều xếp trên danh dự và thể diện của ta.
Một vũ cơ chỉ vào mấy khối bạc, không nhịn được bật cười:
“Chỉ vì số tiền ít ỏi này sao?”
Lại có một cô nương khác cắn bút vẽ, cầm lấy hôn thư, bỗng phát hiện ra điều gì, liền cười lớn đầy trêu chọc:
“Ngươi liều mạng như vậy, chỉ để gả chồng sao?”
Trước mắt ta là những thiếu niên áo gấm lụa là, hương thơm ngào ngạt phả vào mặt, ta xấu hổ dùng bọc nhỏ che cổ tay, rụt rè gật đầu.
Mọi người cười lớn, chỉ vào thiếu niên áo tím kia mà nói:
“Bùi đại nhân! Ân nhân cứu mạng nhỏ của ngài tìm đến cửa rồi kìa!”
Ta sững sờ nhìn sang Bùi Phi Mặc, lúc này gương mặt hắn âm trầm.
Hắn chỉ thoáng liếc cổ tay lộ ra của ta với vẻ chán ghét, buông một câu:
“Không biết liêm sỉ.”
Có lẽ vì lần đầu gặp mặt quá khó coi, nên suốt năm năm sau đó, dù ta đuổi theo sau hắn, dốc lòng học đan thanh để làm hắn hài lòng, hắn cũng chẳng thèm nhìn ta lấy một lần.
Ngọn đèn lóe sáng rồi lại nổ lách tách, tựa như gợi lại tâm sự trong lòng Bùi Phi Mặc.
“Vậy ngươi muốn từ hôn, có phải vì ta từng nói ngươi không biết liêm sỉ?”
Ta lắc đầu.
Không phải. Chúc A Ninh năm ấy không có chút lòng tự trọng nào.
Bùi Phi Mặc thích đan thanh họa nghệ, nàng liền học.
Chỉ cần khiến Bùi Phi Mặc cưới nàng, nàng sẵn sàng làm mọi thứ, chẳng bận tâm thể diện là gì.
Quyết định từ hôn là vào hôm ta nghe thấy Bùi Phi Mặc và Tiểu Liên cô nương trò chuyện.
Hắn nói, hắn không muốn cưới một người vì vài khối bạc vụn mà vứt bỏ thể diện và lòng tự trọng.
Càng không muốn cưới một kẻ hao tâm tổn trí đến kinh thành chỉ để kết thân với Bùi gia.
Tiểu Liên cô nương thở dài, là nữ tử, nàng cũng không nhịn được mà nói đỡ cho ta một câu:
“Có lẽ, có lẽ nàng ấy thật sự có khó khăn gì đó.”
“Nàng ta có thể có khó khăn gì? Hai tỷ tỷ của nàng, người thì gả cho kẻ giàu có, người thì làm vợ kế cho kẻ có quyền, nàng thì khá hơn được bao nhiêu? Thật ra bao năm nay ta lạnh nhạt với nàng, là muốn nàng tự biết điều.
“Huống chi, Tiểu Liên, nàng cũng biết mà, ta thích những cô nương nhân phẩm cao quý. Nàng từng cứu mạng ta nhưng lại không thi ân cầu báo*, khác biệt với Chúc tam cô nương như trời với đất.”
*Thi ân cầu báo: Lợi dụng ân nghĩa để ép người khác báo đáp
Trong câu chuyện đùa, Bùi Phi Mặc còn giễu cợt lời của lão ni năm xưa:
“Rốt cuộc là ý chí bền bỉ như cỏ bồng, hay nhân phẩm thấp hèn như cỏ bồng đây?”
Hôm ấy, ta cầm đèn đứng ngoài cửa, ngây ngẩn nghe thật lâu.
Những năm qua đã quen với sự lạnh nhạt, mỉa mai của Bùi Phi Mặc, nên thực ra ta không cảm thấy ấm ức, cũng không định giải thích cho mình.
Chỉ là không hiểu sao, khoảnh khắc ấy, ta lại nhớ đến nhị tỷ, lòng bỗng dưng xót xa cho nàng.
Rõ ràng ta không khóc, nhưng gió đông thổi lên mặt ngứa ngáy, khiến ta bất giác đưa tay lau đi giọt nước mắt lạnh buốt.
Bùi Phi Mặc vội vã giải thích, như một đứa trẻ nôn nóng sửa chữa bài tập sai:
“Khi đó ta nói có người trong lòng, nhưng giờ ta mới nhận ra, người trong lòng ta chính là…”
“Bùi đại nhân thích ai, thì hãy bày tỏ lòng mình với nàng ấy, không cần nói với A Ninh.”
Ta cười lắc đầu, khi men rượu dâng lên, cũng dám ngắt lời hắn:
“Bùi đại nhân nói không sai, năm ấy Chúc tam cô nương quả thực không biết liêm sỉ, muốn thi ân cầu báo.
“Nhưng nhị tỷ của nàng không như thế, nhị tỷ nàng không tự nguyện gả đi, nàng ấy không có lựa chọn.
“Khi nàng chết, vẫn còn mang thai sáu tháng. Ta… ta còn từng khâu giày nhỏ cho đứa bé trong bụng nàng ấy nữa.”
Tuyết lặng lẽ rơi, soi rõ vẻ mặt đầy áy náy và kinh ngạc của Bùi Phi Mặc.
Hồi tưởng chuyện xưa, uống rượu cũng chẳng khác nào uống nước lã.
Khi cạn chén cuối cùng, ta đã say đến mức gục trên bàn, miệng lảm nhảm những lời mê sảng:
“Ha ha, để ta nói nhỏ cho ngươi nghe, mỗi tối trước khi ngủ, ta đều nghĩ lại những chuyện mất mặt trong đời này.
“Chúc A Ninh xé rách tay áo là mất mặt, Chúc A Ninh đuổi theo sau Bùi Phi Mặc học hết cái này đến cái kia là mất mặt, Chúc A Ninh từ hôn xong lại vừa đi vừa khóc cũng rất mất mặt.”
“Các ngươi đều có thể xem thường nàng ấy, nhưng ta… nhưng ta không thể trách nàng thêm nữa.”
… Không còn cách nào khác cả.”
… Khi ấy, Chúc A Ninh cũng giống như nhị tỷ, không còn cách nào khác.”
4.
Người trước mắt, Chúc A Ninh đang say rượu lảm nhảm, lại là một mặt khác mà Bùi Phi Mặc chưa từng thấy qua.
Nàng gục đầu trên bàn, vừa nói chuyện vừa bận rộn rơi nước mắt.
Thật đáng thương, mà cũng buồn cười.
Khi Bùi Phi Mặc còn đang do dự không biết có nên đưa tay lau nước mắt cho nàng hay không, thì nàng đã khóc đến mệt lả, không khóc không quậy nữa, chỉ yên tĩnh nằm ngủ trên bàn.
Người mà suốt bảy năm qua hắn không thèm liếc nhìn một lần, giờ đây chỉ là nằm ngủ yên tĩnh ở đó, lại khiến tim hắn đập loạn nhịp.
Nàng đã làm rất tốt rồi.
Là ta không tốt, đã không nhận ra nàng.
Người trước mắt gối đầu lên cánh tay, dưới ánh nến, hàng mi còn ướt đẫm của nàng khẽ lay động.”
Say rượu tựa như chèo một chiếc thuyền nhỏ, khiến hắn nhớ lại tình cảm nhất kiến chung tình năm ấy.
Năm đó, khi ở bến Quan Hà Độ, hắn bị ám toán may mắn được Cừu nương tử cứu giúp và dưỡng thương trên chiếc thuyền họa của bà.
Ngày hè dài đằng đẵng, xuyên qua tấm rèm châu, chiếu mát là tấm chiếu trúc, ánh sáng lốm đốm rọi xuống bên tay hắn.
Lờ mờ trong cơn mê, hắn nhìn thấy nữ học trò mới của Cừu nương tử đang ngồi bên giường, tay cầm chiếc quạt lụa nhẹ phe phẩy quạt cho hắn.
Tâm tư nàng tỉ mỉ, vì ở nơi sông nước muỗi vằn nhiều, chắc là sợ hắn bị đốt rồi sốt cao.
Thế nhưng vì giữ lễ nghĩa nam nữ, nàng đeo mạng che mặt, nên Bùi Phi Mặc không thể nhìn rõ dung mạo nàng.
Chỉ nhìn thấy sau lưng nàng, một chiếc đèn cung bốn mặt mới vẽ xong đang hong khô.
Màu xanh lá là lá chuối, màu xanh lam là núi đá, màu trắng là cổ tay trắng ngần lộ ra dưới ống tay áo của nàng, màu vàng chính là ánh sáng lấp lánh của mặt nước, chiếu rọi lên đôi mắt cười dịu dàng của nàng.
Bùi Phi Mặc cố hết sức muốn nhìn rõ dung nhan nàng, nhưng lại chẳng thể nào nhìn thấy. Những sợi rèm châu và tua đèn cung đều cùng lúc lay động, che mờ tầm mắt hắn.
“A Ninh, qua đây giúp ta giặt tấm lụa này một chút.”
A Ninh, thì ra nàng tên là A Ninh.
Sau đó, hắn muốn đến nhà cảm tạ nhưng Cừu nương tử đã rời đi du ngoạn, không thể tìm được tung tích.
Hắn tìm khắp các chợ lớn trong kinh thành, chỉ mong thấy một chiếc đèn cung đình tương tự có thể hé lộ chút tin tức về A Ninh cô nương. Nhưng các cửa hàng đèn đều nói rằng đã lâu không còn bán loại đèn ấy. Dù cho gió không tắt, mưa không hư, nhưng làm nó lại tốn công tốn sức.
Cuối cùng, hắn nghe được tin tức từ hai năm trước: Vị Cừu nương tử tính khí kỳ quặc kia cuối cùng cũng hé lộ rằng cô nương A Ninh là môn đồ đắc ý cuối cùng của bà. Nàng vào kinh để nương nhờ nhà chồng, nhưng phu quân không yêu thích nàng, thậm chí còn chẳng buồn nhìn đến nàng. Cuộc sống của nàng trôi qua đầy khổ sở.
Khi ấy, Bùi Phi Mặc chỉ cảm thấy đau lòng đến cùng cực. Làm sao trên đời này lại có kẻ nam nhân khốn nạn đến thế, đem viên minh châu quý giá đối đãi như đá sỏi tầm thường.
Dường như số phận rất thích trêu đùa hắn.
Quan trên sai hắn đến đón môn đồ của Cừu nương tử nhập kinh. Ngày A Ninh, nữ họa sư, vào kinh, trong lòng Bùi Phi Mặc tràn đầy vui mừng khôn xiết.
Xe ngựa dừng lại, hắn cung kính khom người thi lễ, nói: “Bùi mỗ ngưỡng mộ tài hoa của cô nương đã lâu, lần này hộ tống cô nương vào kinh…”
Lần này hộ tống A Ninh cô nương vào kinh, hắn vốn đã ôm lòng riêng, mong có thể được cùng nàng đơn độc bầu bạn.
Người mà hắn ngày nhớ đêm mong nay đã ở ngay trước mắt, cuối cùng không phải gặp trong giấc mộng.