12
Những năm qua, Phùng Chiếu Thu đã tích cóp được không ít bạc, tạm thời không cần bán ruộng đất.
Ngày rời thôn Bảo Hoa, Khương Thụy đến tiễn ta.
Cô ấy khóc thảm thiết, khuôn mặt nhỏ nhắn nhăn nhó, nhìn không nổi.
“Tỷ thật đáng ghét! Tỷ và cha mẹ ta đều đáng ghét! Nói đến là đến, nói đi là đi…”
Đang oán trách, cô ấy thổi ra một bong bóng mũi.
Ta ho một tiếng để che giấu tiếng cười, đưa miếng ngọc bội đeo trên người cho cô ấy: “Miếng ngọc bội này tuy không đáng giá nhưng cũng là thứ ta đeo từ nhỏ đến lớn. Đừng khóc nữa, thôn Bảo Hoa cách kinh thành gần thế này, muội cứ đến tìm ta là được.”
Khương Thụy cũng tháo chiếc khóa bình an đeo trên cổ, đưa cho ta: “Niệm Chi tỷ, bảo trọng.”
Lần này, Phùng Chiếu Thu thuê xe ngựa, bà nói: “Niệm Chi, chúng ta phải trở về thật oai phong!”
Trước khi lên xe ngựa, ta lại nhìn ngôi nhà nhỏ mà Phùng Chiếu Thu đã sống hơn mười năm, hai cây đào nhìn nhau, cũng không cô đơn.
Nhưng Phùng Chiếu Thu lại không ngoảnh đầu lại mà lên xe ngựa, bà vẫn luôn như vậy, chỉ nhìn về phía trước.
“Niệm Chi, đi thôi!”
Tiếng vó ngựa làm tung bụi đất trên đất thôn Bảo Hoa, một đường từ hoang vu đến phồn hoa, khi nhìn thấy hai chữ “Yến Kinh”, ta hiểu rằng, ta cũng không cần phải quay đầu nữa.
Chúng ta mua một ngôi nhà ở phía nam thành, một ngôi nhà nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi.
Phùng Chiếu Thu thích nhất là cây hồng trong sân, bà nói khi ra quả thì đỏ rực rỡ, nhìn vào thấy vui mắt.
Còn khoảng đất trống trong sân, bà định dùng để trồng rau, còn rải hạt hoa hồng ở tường viện.
“Hoa hồng đẹp lắm, hoa đẹp, gai đâm người, vừa đẹp vừa bảo vệ tường rào, ai dám trèo vào cũng sẽ bị đâm một mông đầy gai!”
Nhìn bóng bà bận rộn, không hiểu sao mũi ta lại cay, dường như cuộc sống vốn nên như vậy.
Sau khi dọn dẹp xong chỗ ở, chúng ta đến phố Tây xem cửa hàng.
Ta không có kinh nghiệm kinh doanh nhưng Phùng Chiếu Thu lại rất rành.
Bà định mở một cửa hàng bán lụa, bán vải Giang Nam.
“Thứ nhất, vải Giang Nam nổi tiếng khắp nơi, thanh nhã quý phái, kinh thành không thiếu thứ gì, chỉ thiếu người giàu, không lo không bán được.
“Thứ hai, phu thê nhà họ Khương vẫn luôn chạy tuyến Kinh Hàng, việc mua hàng vận chuyển có thể giao trực tiếp cho họ, không lo không có nguồn cung.
“Thứ ba, cũng là điều quan trọng nhất, những thứ tốt này đều phải để cho con gái ta mặc.”
Ta cười đỏ cả mắt: “Con gái của ai mà hạnh phúc thế?”
Bà nắm chặt tay ta: “Còn có thể là con gái của ai? Là con gái của Phùng Chiếu Thu ta chứ còn ai.”
13
Ngày khai trương cửa hàng lụa, tiếng pháo nổ không ngớt, ta bịt tai, mong chờ đơn hàng đầu tiên.
Nhưng chờ mãi chờ mãi, chỉ chờ được một trận mưa rào, tro pháo bị rửa sạch, trong cửa hàng vẫn không có một bóng người.
Thấy ta cứ nhìn chằm chằm ra ngoài cửa, Phùng Chiếu Thu bày cho ta một bàn trà ở tầng hai: “Không có việc gì thì đọc sách đi.”
Ta ngồi vào bàn, cầm sách nhưng mắt chỉ nhìn ra phố.
Rõ ràng người đi lại tấp nập, sao lại không có ai vào mua vải chứ?
Phùng Chiếu Thu bưng trà quả đến, cười nói: “Đọc sách mà cũng cầm ngược.”
Ta ngượng ngùng đặt sách xuống: “Mẹ, làm ăn không đơn giản như đọc sách, không đúng, còn khó hơn. Sách thì chữ in ở đó, đạo lý viết ở đó, cho dù không giỏi như Tề phu tử, mỗi người đọc ra một ý cũng coi như đọc được. Nhưng làm ăn có thành hay không, còn phải xem người khác.”
“Muốn móc tiền từ túi người khác, sao có thể không khó?”
Nói rồi, trên trời vang lên một tiếng sấm, gió lại hú lên, bà nhìn ra ngoài cửa sổ những chiếc lá xoay tròn rơi xuống, thở dài: ” Một cơn mưa thu một trận lạnh, sắp vào đông rồi.”
Đa số những người dân nghèo đều không thích mùa đông.
Tuyết trong thơ ca nhẹ nhàng như tiên nhưng đối với những người đói rét thì lại là con dao đoạt mạng.
Lưu Thụy Nhi xuất hiện trong một trận tuyết mỏng lạnh lẽo.
Trên người nàng toàn là miếng vá, đôi giày cỏ trên chân ngâm trong nước bùn, mặt giày thủng lỗ, những ngón chân tím tái co hết sức, tránh để lỗ thủng càng to hơn.
Đứa bé gái nàng bế trên tay thì không đến nỗi túng quẫn như vậy, chỉ có chỗ tay áo được khâu vài bông hoa nhỏ bằng vải vụn, không có thêm vết vá nào khác.
Phùng Chiếu Thu vừa thấy họ, lập tức cầm ô ra đón vào.
Ta bưng nước nóng đến, Lưu Thụy Nhi vội vàng đón lấy, lại một tràng cảm ơn.
Nàng nhỏ hơn ta hai tuổi, người Đạm Châu, quê nhà bị lũ lụt, sau khi thất lạc phụ mẫu huynh đệ, nàng dẫn theo muội muội đi ăn xin đến Yến Kinh tìm nơi nương tựa người thân.
“Nhưng người thân đó cũng là kẻ túng thiếu, không thể cưu mang chúng ta. Phùng di, cháu may vá giỏi, còn biết may quần áo, a di có thể cho cháu ở lại cửa hàng làm việc không? Cháu không cần tiền công, chỉ cần được ăn ở là được!”
Ta vốn tưởng Phùng Chiếu Thu sẽ từ chối, không ngờ bà lại sảng khoái đồng ý.
“Ta cũng không giấu gì con, sanh ý ở đây đìu hiu, còn đang lỗ vốn nên ta vốn không định thuê người. Hôm nay gặp được con cũng coi như có duyên, con cứ ở lại cửa hàng ăn ở, còn tiền công, ta không trả riêng cho con, con sẽ được hưởng hoa hồng từ số vải bán được, được chứ?”
Tất nhiên là không gì tốt hơn.
Về nhà, ta không nhịn được hỏi: “Mẹ cưu mang họ, là vì thấy họ đáng thương sao?”
“Nói đúng một nửa.
“Nếu tay nghề may vá của Thụy Nhi không tốt, ta có thương hai tỷ muội họ đến mấy cũng chỉ cho ít bạc để giúp đỡ, không thể để họ ở lại cửa hàng làm việc.
“Con người ta không thể chỉ thương hại, tiếp theo ‘thương hại’ chính là ‘bắt nạt’.
Người ta quý trọng sự tự lập, hoặc phải có nghề trong tay, hoặc phải có chí tiến thủ, trên người phải có thứ gì đó có lợi cho người khác, người khác mới chịu ra tay giúp đỡ.”
Ta luôn cảm thấy, Phùng Chiếu Thu và Tề Kiến Chân có chút giống nhau, Tề Kiến Chân là kẻ vô lại trong sách thánh hiền, Phùng Chiếu Thu là người trí tuệ trong chốn phồn hoa đô hội.
Họ đều dạy ta cách sống tốt hơn.
Phùng Chiếu Thu bảo Lưu Thụy Nhi may trước cho hai tỷ muội họ vài bộ quần áo mùa đông, mùa đông ở Yến Kinh dài, không thể qua loa được.
Ban đầu chỉ định để nàng luyện tay, không ngờ nàng lại có chút năng khiếu về việc này, không chỉ kiểu dáng mới lạ mà màu sắc cũng phối hợp cũng rất tao nhã.
Nàng mặc bộ quần áo tự may đứng ở quầy, như một tấm biển hiệu sống, sanh ý trong cửa hàng dần dần tốt lên.
[Thụy Nhi nói đang may cho ta một chiếc áo bông màu đỏ, đến Tết hẳn có thể mặc được.
[Khương Thụy nhờ người mang thịt lợn muối đến, nói là do Khương nãi nãi tự làm. Ta ăn một miếng, quả nhiên bà ấy không phân biệt được đường và muối.]
Ta lật xem sổ tay những ngày gần đây, những việc ghi lại ngày càng nhỏ nhặt, không phải ăn thì cũng là mặc.
Thật là làm nhục cái chữ!
Phùng Chiếu Thu xem thì lại rất hài lòng.
14
Sau tiết lập đông, tuyết lớn liên tục rơi hơn một tháng.
Ngày đông chí, Phùng Chiếu Thu tính xong sổ sách, phát cho hai tỷ muội Lưu Thụy Nhi hai phong bao lì xì.
Lưu Thụy Nhi cười nói muốn đi mua xương dê hầm ăn, ta đang trêu nàng là phung phí thì trước cửa hàng đột nhiên có một đám người vây lại, còn chỉ trỏ bàn tán.
Hóa ra là Nghiêm phu nhân lại đến, chỉ là lần này, bà ta không còn cao cao tại thượng nữa.
Bà ta quỳ trước cửa hàng, tuyết dưới đầu gối bà ta tan ra rồi lại đóng băng.
“Niệm Chi, ta cầu xin con, cùng ta về thăm muội muội con đi!”
Bà ta nói thân thể Lạc Nhu vẫn không thấy khỏe, gần đây còn ho ra máu.
Nghiêm phu nhân chỉ có một đứa con gái này, nếu không phải tuyệt vọng, bà ta sẽ không bất chấp thể diện, quỳ xuống cầu xin ta giữa phố đông người qua kẻ lại.
Phùng Chiếu Thu muốn ra đuổi bà ta đi, ta kéo tay áo bà, nói: “Mẹ, con đi là được.”
Thấy ta ra, mắt Nghiêm phu nhân sáng lên: “Niệm Chi, con chịu đi cứu muội muội con rồi sao?”
Ta lắc đầu: “Ta không phải thuốc của nó, ta không cứu được nó.”
Thần sắc bà ta hoảng hốt: “Sao lại thế được? Chỉ có con mới cứu được nó! Con không muốn cứu nó đúng không? Con vong ân phụ nghĩa!”
Mắng xong, bà ta lại kéo áo choàng của ta, cầu xin: “Con cứu nó đi, nó mới mười sáu tuổi, còn trẻ như vậy…”
Ta không rút áo choàng lại, cũng không cúi xuống đỡ bà ta.
Khi bà ta làm mẹ của Lạc Nhu, bà ta cũng là người mẹ tốt nhất trên đời nhưng bà ta đối xử không tốt với ta.
“Nghiêm phu nhân…”
Bà ta sửng sốt: “Con gọi ta là gì?”
“Nghiêm phu nhân, bà có từng nghĩ rằng, dù là cái chết của đứa con đầu lòng của bà, hay là bệnh của Lạc Nhu, đều là do con người gây ra, chứ không phải là trời phạt không?”
“Lời con nói… có ý gì?”
“Bà dừng cho Lạc Nhu uống nước bùa, có lẽ bệnh của nó sẽ khỏi.”
Nghiêm phu nhân cũng không phải từ đầu đã như vậy.
Khi bà ta mang thai đứa con đầu lòng, bà ta từng cùng Lạc Hầu ra ngoài lễ Phật.
Gặp một đạo sĩ già, đạo sĩ già đó điên điên khùng khùng, chỉ vào bà ta nói bà ta mệnh cách quá quý, áp chế vận khí của đứa trẻ, đứa trẻ này hoặc là không giữ được, hoặc là sinh ra đã chết.
Lúc đó bà ta và Lạc Hầu mới cưới, đang trong thời kỳ mặn nồng, cho dù bà ta có nghe được những lời này, Lạc Hầu cũng không nghe được.
Đạo sĩ già bị đánh một trận nhưng vẫn chỉ vào bà ta nói “Sinh không được.”
Mà ngày bà ta sinh nở, quả nhiên sinh ra một đứa con chết.
Lúc nhỏ, ta từng vô tình đi vào một ngôi miếu nhỏ mà nghiêm phu nhân lập.
Cái tên khắc trên bài vị là gì, ta đã không còn nhớ.
Ta chỉ nhớ, nghiêm phu nhân vốn lạnh lùng vô tình đang nằm sấp trên bàn thờ khóc không thành tiếng.
Đôi mắt đau khổ đó giờ đây lại chồng lên nhau, bà ta dường như hiểu ra điều gì đó nhưng lại không dám tin.
Bà ta đứng dậy, mơ mơ màng màng đi về.
Trò lừa bịp này kỳ thực không cao minh, chỉ là Hầu phủ âm khí nặng nề, người đứng trong đó đi thế nào cũng là mê cung.
Tuyết lớn bay đầy trời, chẳng mấy chốc đã chôn vùi bóng lưng bà ta vào một màu trắng xóa.
Xẻ ngang màu trắng đó là một chiếc ô màu xanh.
Người dưới ô mỉm cười vô lại, bà vẫn như lần đầu gặp mặt, giọng điệu trơn tru: “Ta cũng không nói là sẽ đến, sao ngươi còn cố ý ra đây đợi ta? Chẳng lẽ đây là tâm linh tương thông?”
Ta vui mừng nghênh đón: “Phu tử!”