3.
Nghe yêu cầu của Giản Châu, tôi lạnh cả sống lưng, cười gượng: “Anh có hiểu lầm gì về tôi không? Tôi chỉ là một quỷ hồn chưa đầu thai ở Địa Phủ, còn giúp anh phá hoại trật tự Địa Phủ sao? Tôi e là chưa kịp ra tay đã bị ném vào vạc dầu rồi.”
Giản Châu im lặng không nói gì.
“Có phải anh đang nghĩ rằng tôi sống trong biệt thự, nuôi nhiều người giấy nên chắc là giàu có lắm đúng không?” Tôi chỉ vào những hình nhân đang chơi vui vẻ bên cạnh: cậu bé trai, cô bé gái, tên què và anh chàng điếc, rồi vò đầu, “Mấy thứ này cũng chẳng dễ giải thích, cứ coi như họ là gánh nặng ngọt ngào của tôi đi.”
“Lần đầu tiên anh đến Địa Phủ, có vài chuyện có thể anh chưa hiểu rõ, nhưng anh phải biết, yêu cầu của anh là điều tôi không thể làm được.” Tôi nhấn mạnh thêm, “Và thực ra, ngay cả trong Địa Phủ này, cũng chẳng có bao nhiêu linh hồn làm được điều đó. Anh nên từ bỏ suy nghĩ đó đi.”
Giản Châu vẫn lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ, không biết đang nghĩ gì.
Tôi thật sự tò mò không biết giữa Giản Châu và Địa Phủ có mối thù gì, nhưng khi còn sống, tôi không thích xen vào chuyện riêng tư của người khác, và sau khi chết, tôi vẫn giữ nguyên tắc đó.
Thế nhưng, tôi lo rằng Giản Châu sẽ gây họa, nên đứng bên cạnh anh mà khuyên hết lời:
“Anh yên tâm, đã là lỗi của em trai tôi thì tôi nhất định sẽ chịu trách nhiệm với anh.” Nói rồi, tôi chỉ vào mấy hình nhân đang vui đùa, quả quyết: “Anh thấy không, tôi chăm sóc bọn họ tốt thế nào, tôi cũng sẽ chăm sóc anh như thế!”
“Vết bùn trên quần và áo bị rách, đó là cái gọi là chăm sóc tốt của cô à?”
Tôi nhìn theo ánh mắt của Giản Châu, thấy vết bùn trên quần của tên què và bộ áo rách của anh chàng điếc, lòng tôi như bị xát muối.
Tôi đã dồn hết tâm huyết để chăm sóc họ, nhưng đến lúc quan trọng lại chẳng giúp được gì, còn khiến tôi mất mặt thế này.
Đúng lúc đó, từ trong sân vang lên một giọng nói:
“Giang Nguyệt, có ở nhà không? Tôi đem ít đào cho cô này.”
Giọng nói này tôi quen thuộc đến mức không thể nhầm lẫn, nếu nói tôi có quen biết ai dưới Địa Phủ thì đây chính là một trong số đó – Hắc Vô Thường.
Nghe tiếng, tôi vội ra đón, vui vẻ chào: “Hắc đại ca, hôm nay sao rảnh rỗi ghé nhà tôi vậy?” Tôi cúi đầu nhìn vào rổ đào trên tay Hắc Vô Thường, “Chà! Đào tươi quá, hương thơm ngọt ngào lan tỏa khắp không gian rồi!”
Hắc Vô Thường đưa rổ đào cho tôi, mỉm cười đáp: “Hôm nay số người cần đưa về không nhiều nên tôi tan làm sớm. Trên đường gặp Mạnh Bà, bà ấy bảo tôi đem ít đào này cho cô, coi như chút quà cảm ơn.”
“Ôi trời! Mạnh Bà khách sáo quá, chỉ là giúp bà ấy chút chuyện nhỏ thôi mà. Hắc đại ca có muốn vào nhà uống tách trà không?”
Hắc Vô Thường xua tay: “Để dịp khác đi, lần tới rảnh chúng ta cùng qua nhà Mạnh Bà. Bà ấy mới ủ được một ít rượu ngon lắm!”
“Được, nhất định là vậy!”
4.
Tiễn Hắc Vô Thường xong, tôi và Giản Châu nhìn nhau vài giây với ánh mắt không rõ ý tứ.
Tôi cười gượng: “Hắc đại ca là người tốt, đào này ngửi mùi cũng ngọt, muốn ăn thử không?” Tôi lấy bừa một quả đào từ rổ đưa cho Giản Châu.
Anh ta không đưa tay nhận, mà chậm rãi lên tiếng: “Sao tôi cảm thấy cô chính là người thích hợp nhất để giúp tôi thực hiện kế hoạch lớn nhỉ?”
“Tôi không phải, tôi không thể, tôi không làm được!”
Bỗng Ngọc Nữ xen vào: “Phụ nữ không nên nói mình không làm được, phải nói mình rất giỏi!”
Kim Đồng cũng thêm vào: “Đúng vậy, cô làm được, cô nhất định làm được!”
Tôi ôm đầu, mặt mũi tràn đẩy vẻ sống không còn gì luyến tiếc. Ông trời ơi, còn gì là cuộc sống nữa? À, không đúng, tôi chết rồi mà. Kiếp trước rốt cuộc là tôi đã gây ra tội gì mà phải gặp những kẻ kỳ quặc như thế này?
Giản Châu lại lên tiếng: “Cô có chịu giúp tôi không?”
Nhìn thấy dáng vẻ anh ta, tôi không khỏi bực mình. Đây mà là thái độ nhờ vả sao? Nếu không phải vì lỗi của em trai, tôi đã muốn đuổi cổ anh ta ra khỏi nhà từ lâu.
Tôi hít sâu một hơi, rồi nói với Giản Châu: “Trừ khi anh nói cho tôi biết lý do muốn thực hiện việc này. Tôi phải hiểu rõ ngọn ngành, nếu không, tôi không thể giúp anh được.”
Giản Châu suy nghĩ vài giây, mắt khẽ cụp xuống.
Khi tôi nghĩ rằng anh ta sắp nói ra lý do, anh ta lại đáp: “Không có gì để nói. Nếu cô không muốn giúp tôi thì thôi, nhưng e là em trai cô chẳng còn sống được bao lâu nữa.”
Nói rồi, Giản Châu quay lưng bỏ đi, không hề ngoảnh lại.
Nghĩ đến em trai, rồi nghĩ đến điều kiện của Giản Châu, cơ thể tôi không khỏi run rẩy, tôi không muốn cả hai chuyện đó xảy ra.
Bởi vì có quen biết với Mạnh Bà và Hắc Vô Thường, tôi thường nghe họ kể nhiều chuyện ly kỳ trong Địa Phủ, đồng thời nghe được không ít về các oan hồn khác.
Ở Địa Phủ, không phải linh hồn nào cũng đến vì đã tận số. Có những linh hồn bị áp bức đến chết, có những linh hồn bị oan khuất, và không ít linh hồn chết do tai nạn hay mưu sát…
Nói cho cùng, quyết định sự sống chết của con người không phải là sổ sinh tử trong tay Diêm Vương, mà là do chính con người quyết định. Những mối quan hệ, những quyết định mà một người đưa ra trong cuộc đời đều ảnh hưởng đến vận mệnh của họ.
Vì vậy, các linh hồn ở đây đều hy vọng sau khi kết thúc kiếp này, có thể được đầu thai và tái sinh.
Những gì Giản Châu muốn – khiến các linh hồn không bao giờ được siêu sinh – quả thật quá tàn nhẫn đối với những hồn ma mong muốn đầu thai.
Nhưng nếu tôi không giúp anh ta, còn em trai tôi thì sao? Nó vẫn còn trẻ, và ba mẹ tôi liệu có thể chịu đựng thêm một nỗi đau mất con không?
Nghĩ đến đây, tôi cắn chặt môi, nắm tay lại, làm người khó, làm ma cũng không dễ dàng gì.
“Cô đã suy nghĩ xong chưa? Cô có năm giây để lựa chọn.”
Mỗi bước Giản Châu tiến lại gần, anh ta lại đếm một con số.
“Một.”
“Hai.”
Khi Giản Châu đếm đến năm, tôi lớn tiếng nói: “Oan có đầu, nợ có chủ. Nếu anh không muốn tha cho Giang Dã thì tôi cũng không còn cách nào.
Dù sao, tôi không thể dùng hy vọng của người khác để đổi lấy mạng sống của em trai mình.” Tôi thì thầm.
Giản Châu quay lại nhìn tôi, mỉm cười đầy ẩn ý: “Xem ra cô định ra tay tàn nhẫn với người thân rồi.”
Tôi quay lưng về phía anh, hét lên: “Anh đi đi, tôi không giúp gì được cho anh. Dù em trai tôi phải vào vạc dầu, tôi cũng sẽ ở bên cạnh nó.”
5.
Sau khi Giản Châu rời đi, tôi luôn thấp thỏm lo âu, đi khắp nơi dò hỏi tin tức để biết tình hình của em trai.
Nhưng mấy ngày trôi qua, mọi chuyện vẫn bình lặng đến lạ thường, khiến tôi thấy bất an, như thể đây là sự bình yên trước cơn bão.
Tôi muốn báo mộng cho em trai, muốn nói cho nó biết về những gì sắp xảy đến, muốn bảo nó đừng sợ, chị dù là ma cũng sẽ bảo vệ nó, nếu không bảo vệ được thì sẽ cùng nó chịu khổ.
Tôi cũng muốn báo mộng cho ba mẹ, muốn nói rằng, con gái bất hiếu và vô dụng, chết rồi mà cũng không thể che chở cho em trai được bình an.
Chỉ tiếc là, ngôi sao mộng của tôi đã dùng hết, để tích lại sao cần rất nhiều thời gian và tích đức Địa Phủ.
“Giang Nguyệt! Có ở nhà không?” Hắc Vô Thường đứng trước cổng gọi tôi.
Tôi vội vàng ra ngoài, cười chào: “Hắc đại ca, hôm nay tan ca sớm à?”
“Phải, hôm nay hiếm được ngày tan ca sớm. À, Mạnh Bà hẹn chúng ta uống rượu, bà ấy bảo sẽ mang ra thứ rượu ngon nhất ủ từ nhiều năm cho chúng ta nếm thử.”
Tôi theo Hắc Vô Thường đến chỗ Mạnh Bà, thấy bà đã chuẩn bị sẵn đồ nhậu.
“Chờ hai người nãy giờ!” Mạnh Bà vui vẻ chào và rót rượu cho chúng tôi, “Nào, đến nếm thử rượu ủ đã năm mươi năm của ta!”
Tôi nhấp một ngụm, khen ngợi: “Rượu của Mạnh đại tỷ quả nhiên tuyệt, vào miệng thật ngọt còn lưu hương!”
Mạnh Bà mỉm cười đáp: “Miễn cô thích là tốt rồi.”
Qua ba lần rượu, chúng tôi bắt đầu bàn về những chuyện mới xảy ra gần đây ở Địa Phủ. Nhưng thật ra tôi chỉ muốn dò hỏi xem có tin tức gì về em trai tôi không.
“Có nghe nói gì chưa? Có người từ thời Khang Bình năm thứ ba sống đến giờ, đã thành bán linh hồn rồi.”
Tôi sững sờ, đoạn lịch sử này khiến tôi nhớ đến thời còn đi học. Nam triều có một tiểu quốc tên là Dụ Quốc, và Khang Bình là niên hiệu cuối cùng của vị quân chủ cuối cùng. Dụ Quốc chỉ tồn tại hơn bảy mươi năm.
Vì sao tôi nhớ rõ vậy? Đó là vì vào thời Khang Bình, có một công chúa mất nước trùng tên với tôi, cũng gọi là Giang Nguyệt. Bạn học từng đùa rằng tôi có thể là kiếp sau của nàng công chúa ấy. Nếu tính từ thời Khang Bình đến nay đã hơn năm trăm năm, người sống sót từ năm Khang Bình thứ ba đến nay chắc hẳn đã hơn năm trăm tuổi.
Tôi thắc mắc: “Bán linh là cái gì?”
Hắc Vô Thường giải thích: “Bán linh là những linh hồn nửa người nửa ma, có bóng và vẫn sống trong nhân gian nhưng không có khí tức của người sống.”
Tôi lại hỏi tiếp: “Vậy làm sao họ sống được?”
“Chấp niệm.” Mạnh Bà nhấp một ngụm rượu, nói tiếp: “Bán linh khi còn sống cũng từng là người. Đời người có một hạn mức, đến lúc hạn đến, người đó phải chết. Nhưng bán linh thì do chấp niệm mà hóa thành. Có thể xem bán linh là cái bóng do chấp niệm hóa ra.”
“Khi con người qua đời, nếu chấp niệm quá sâu đậm, thì một ngọn cây cọng cỏ, gạch ngói xung quanh đều có thể trở thành nơi lưu giữ chấp niệm ấy. Dù hồn phách đã được Hắc Bạch Vô Thường đưa xuống Địa Phủ, nhưng chấp niệm vẫn còn ở lại trần gian, có thể hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt và hóa thành bán linh.
“Trở thành bán linh là vô cùng đau khổ,” Mạnh Bà thở dài, “Họ chẳng khác gì con người, chỉ thiếu đi khí tức của người sống. Mỗi đêm khi ngủ, họ phải trải qua ký ức đau đớn nhất của mình lúc còn sống.”
6.
Tôi lại hỏi: “Hiện tại bán linh ấy đang ở đâu?”
Hắc Vô Thường lắc đầu: “Vài ngày trước chúng tôi đã phát hiện dấu vết của hắn, nhưng hắn đã trốn thoát. Giờ vẫn đang điều tra tung tích.”
“Nếu tìm được bán linh, các người sẽ làm gì với hắn?”
Hắc Vô Thường đáp ngắn gọn: “Giết.”
Tôi kinh ngạc: “Sao phải giết hắn? Hắn đã chết một lần rồi mà?”
Mạnh Bà nhếch môi: “Bán linh vốn là sự tồn tại bất thường. Nếu để mặc như vậy, trật tự nhân gian sẽ bị ảnh hưởng. Ai mà không sợ khi thấy một kẻ sống mà không có hơi thở?”
“Ngoài ra, nếu bán linh bị kẻ xấu lợi dụng để gây hại cho xã hội thì sao? Vì vậy, giải pháp tốt nhất là tiêu diệt hắn – hắn vốn không nên tồn tại trên cõi đời này.”
Tôi tò mò: “Nhưng hắn đã sống suốt 500 năm, chắc chắn cũng có công lực rất mạnh mẽ đi?”
Hắc Vô Thường khoát khoát tay: “Cô đọc nhiều truyện kiếm hiệp quá rồi! Bán linh chẳng có sức mạnh gì cả, yếu đến nỗi bị bắt rồi cũng chỉ còn nước chờ chết thôi.”
Mạnh Bà hạ giọng, kể: “Năm Khang Bình thứ bảy, có một câu chuyện tình bi tráng xảy ra trên chiến trường đẫm máu khi quốc gia sụp đổ.”
“Câu chuyện tình gì?” Tôi tò mò ghé sát lại, lắng nghe.
Mạnh Bà nhìn tôi thật lâu rồi nói: “Trong thời Khang Bình, có một vị công chúa Hoa Dương tên là Giang Nguyệt. Đúng vậy, trùng tên với cô.
“Người ta kể rằng Công chúa Hoa Dương có một thanh mai trúc mã, là thế tử của Quốc công phủ, tên là Phó Dần Lễ. Hai người từ nhỏ đã có tình cảm sâu đậm với nhau. Ban đầu, hoàng đế định gả công chúa cho thế tử, nhưng không biết là quốc công phủ đã đắc tội người nào, có đại thần thượng tấu, liệt kê hàng chục tội danh của Quốc công phủ.
“Khiến hoàng đế giận dữ, nam đinh thì sung quân, nữ quyến thì biếm thành thứ dân. Từ đó, Quốc công phủ mất hết vinh quang, hôn sự giữa công chúa và Phó Dần Lễ cũng không còn ai nhắc đến. Sau này, công chúa Hoa Dương mãi không kết hôn, còn Phó Dần Lễ sống ra sao trong quân ngũ, chẳng ai hay biết.”
“Đến năm Khang Bình thứ bảy, thủ đô của Dụ Quốc bị Nam Việt xâm chiếm. Các đội quân đóng ngoài thành của Dụ Quốc gấp rút trở về cứu viện, Phó Dần Lễ dẫn quân đến ứng cứu.
Nhưng quân Nam Việt bắt giữ hoàng tộc của Dụ Quốc, đưa công chúa Hoa Dương lên tường thành, yêu cầu quân Dụ Quốc rút lui. Hai bên giằng co căng thẳng, một tướng của Nam Việt liền kéo Công chúa Hoa Dương ra trước mặt quân lính Dụ Quốc mà đe dọa: “Nếu các người không rút lui, công chúa của các người sẽ trở thành trò chơi của quân Nam Việt.”
“Phó Dần Lễ không đành lòng nhìn Công chúa Hoa Dương phải chịu nhục, nên đành thương lượng với tướng Nam Việt. Công chúa Hoa Dương nhìn thấy cảnh đó, bật khóc nức nở, gọi lớn bảo Phó Dần Lễ đừng quan tâm đến mình, hãy đặt đại cục lên hàng đầu và báo thù cho quốc gia. Nói xong, nàng liền vùng khỏi tay tên tướng Nam Việt và nhảy xuống khỏi tường thành.”