“Trên người nàng có vết thương cũ, phải dùng nước nóng để xua khí lạnh.”
Ta chưa từng nhìn thấy nam nhân khác trong lúc đang tắm, hoảng hốt ngã ngồi trong làn nước.
Nước rất nóng, ta hít sâu một hơi, lại không thể đứng dậy ngay lập tức.
Trong lúc hỗn loạn, dường như ta đã nghe thấy tiếng cười khẽ của Tạ Vọng Chi, lúc ngẩng đầu, tấm bình phong lại trống trơn, hắn đã đi rồi.
Sau đó, tối nào ta tắm rửa cũng có nước nóng còn bốc hơi, chỉ là không bỏng người giống như trước kia nữa.
Cuối tháng chín, Tạ Vọng Chi bị thương nặng.
Hắn được thuộc hạ cõng về, thái y trong cung đến khám, nói sâu thêm hai tấc nữa là tổn thương đến phổi, Tạ đại nhân đúng là mạng lớn.
Mùi máo tươi trong phòng quá nặng, ta chuyển hai bồn hoa nhài đến bên cửa sổ. Bởi vì sợ nửa đêm hắn sẽ phát sốt, nên cả đêm ta đều canh chừng bên cạnh hắn.
Khi Tạ Vọng Chi tỉnh lại, trong phòng có mùi hoa nhài thơm ngát, tia nắng ban mai chiếc lên chăn bông, có màu vàng nhạt, khiến cho lòng người cũng ấm lên theo.
Ta chú ý đến những điều đó là vì ta đang ngẩn người.
Ta đã thức cả đêm, đầu óc quay cuồng, hoàn toàn không nhận ra Tạ Vọng Chi đã tỉnh lại.
Thậm chí, khi tỉnh táo lại, ta vẫn ngơ ngác nói lời chào buổi sáng với hắn.
Ngốc thật sự.
Hắn cũng không nói gì, chỉ yên lặng nhìn ta.
Mãi đến nửa khắc sau, ta mới kịp phản ứng lại, luống cuống tay chân rót nước cho hắn, lại hỏi hắn cảm thấy thế nào.
Tạ Vọng Chi gọi tên ta.
“A Vân, nàng tiều tụy đi nhiều rồi.”
Thái y nói Tạ Vọng Chi phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, trước khi vết thương lành lại phải tránh đi lại, càng không được nóng giận.
Có lẽ đã nhiều năm rồi hắn không có được kỳ nghỉ dài như vậy. Đám thuộc hạ không dám làm phiền hắn, mỗi ngày chỉ báo cáo những chuyện quan trọng nhất, vỏn vẹn hai trang giấy, chỉ loáng cái là xem hết.
Thời gian rảnh rỗi, hắn chỉ tựa người vào đầu giường, nhìn ta xem sổ sách, quản lý việc nhà.
Có một hôm, có lẽ là do quá nhàm chán, trong lúc uống trà, hắn hỏi ta: “Trước kia khi bị gãy chân, phải nằm trên giường, nàng đã làm gì?”
Ta ngẫm nghĩ, trả lời: “Tụng kinh Phật.”
Tạ Vọng Chi nghiêng người, nói: “Vậy tụng một đoạn đi.”
Ta tụng một đoạn ngắn trong “Quan Âm kinh”.
Tụng xong, Tạ Vọng Chi lại hỏi ta: “Nàng thích lễ Phật à?”
Ta nói thật lòng: “Không thích, ta vẫn luôn cảm thấy rất buồn tẻ, chỉ là đã nhiều năm như vậy, cũng quen rồi.”
Nếu đã nói đến đây, ta cũng dứt khoát kể với hắn về Tạ Thận Chi.
Ngày tốt là ngày, ngày xấu cũng là ngày, suy cho cùng ta vẫn phải chung sống lâu dài với Đại lang Tạ gia, không muốn vì chuyện này mà xa cách với hắn.
Lần đầu tiên ta kể với hắn về tam đệ.
Chuyện học cưỡi ngựa, chuyện học kinh Phật, chuyện tìm hạt châu, đấy đều là những chuyện mà Tạ Thận Chi không biết, không ngờ đến cuối cùng, ta lại kể với Tạ Vọng Chi.
Hắn yên lặng nghe thê tử của mình kể về một nam nhân khác, vẻ mặt rất chăm chú.
Ta nói với Tạ Vọng Chi: “Thật ra, ban đầu khi biết chuyện hắn và Thôi Tam nương, ta vẫn rất căm hận. Tại sao ta tốn nhiều năm như thế, cố gắng trở thành dáng vẻ mà hắn yêu thích nhất, thế mà đến cuối cùng, hắn lại không hề thích ta.”
“Sau này, ta nghĩ thông rồi. Đứng ở góc độ của Tạ Thận Chi, tại sao hắn lại phải thích ta chỉ vì những gì ta trả giá? Những năm này, việc lễ Phật đã mài dũa tính tình của ta, học cưỡi ngựa có thể du ngoạn khắp núi sông. Tuy nói là vì hắn, nhưng suy cho cùng, đều trở thành bản lĩnh của riêng ta, nói đi cũng phải nói lại, ta còn phải cảm ơn hắn nữa kìa.”
“Hồi còn trẻ ta không hiểu chuyện, lại xem ơn cứu mạng như tình yêu. Bây giờ nghĩ kỹ lại, Tam lang Tạ gia là một người tốt, bất kể ai rơi xuống ao, hắn đều sẽ cứu giúp, việc này chẳng liên quan gì đến chuyện ta là nam hay nữ, xấu hay đẹp.”
“Thứ ta yêu quý, có lẽ không phải là Tam lang Tạ gia, mà là khoảng thời gian theo đuổi hắn. Ta đã tự lãng phí ngần ấy thời gian của chính mình.”
Nói đến cuối cùng, khóe mắt ta ứa lệ, lại có chút nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng được nói ra hết.
Tạ Vọng Chi vẫy tay với ta, bảo ta đi sang.
Hắn vén một lọn tóc rũ xuống ra sau tai ta, nhỏ giọng nói: “Chờ vết thương của ta lành rồi, chúng ta đi cưỡi ngựa nhé, được không? Ta có nuôi hai con ngựa con, là một cặp song sinh, chờ vết thương của ta lành hẳn, chúng nó cũng đã lớn rồi. Để ngày mai, ta cho người dắt đến cho nàng xem.”
Ta vui mừng nhìn hắn, Tạ Vọng Chi lúng túng quay mặt đi, nắm tay khẽ ho một tiếng.
Ta giật mình: “Ối, có phải là miệng vết thương của ngươi bị đau không? Để ta đi xem thuốc đã sắc xong chưa.”
Khi đi qua ngã rẽ hành lang, ta thấy trong góc có hai cuộn tranh và một gốc nhân sâm.
Ta gọi người hầu canh giữ ở đây đến, tiểu tư kia sửng sốt: “Sao ạ, Tam công tử không vào trong ạ?”
“Tam công tử?”
“Vâng, lúc nãy Tam công tử mang mấy thứ này tới, nói là muốn vào thăm Đại công tử.”
Ta nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy một đàn chim én đậu trên mái hiên.
Làm gì còn bóng dáng của Tam lang Tạ gia.
7.
Hai người huynh trưởng của Thôi Tam nương đã ch//ết.
Ch//ết ở vùng đất hoang bên ngoài thành Kim Lăng, cách ch//ết rất thê thảm, th//i th//ể bị ch//ặt thành nhiều mảnh vụn.
Sau chuyện sư tử đá lần trước, lão thái gia Tạ gia đã tuyên bố muốn hai người kia cút ra khỏi kinh thành, không được phép bôi nhọ Tạ gia nữa. Thành Kim Lăng là nơi Tạ Thận Chi sắp xếp cho bọn họ, Tạ gia không có nền móng ở nơi đó, Tạ Thận Chi đành nhờ bạn bè tìm việc cho bọn họ. Hắn ta hy vọng ở Kim Lăng không có gốc đại thụ Tạ gia này, bọn họ có thể thay đổi.
Nhưng chuyện này lại phản tác dụng. Hai huynh đệ Thôi gia đến Kim Lăng, ngược lại còn sa đọa hơn, liên tục ra vào sòng bạc và kỹ viện, rất sung sướng. Người bạn của Tạ Thận Chi rất khó chịu vì bị bám theo đòi nợ, từng viết thư cho hắn ta vài lần, hắn ta đã mất hết kiên nhẫn từ lâu.
Tống Nhược Tích có người họ hàng xa làm quan ở Kim Lăng, lúc này đã nhận được tin tức. Cuối thư, nàng ấy hỏi ta: “Ngươi nói xem, nếu Thôi Tam nương biết được chuyện này thì sẽ ra sao?”
Nếu ta là Tạ Thận Chi, tất nhiên là phải giấu kỹ chuyện này.
Nhưng cuối cùng vẫn bị Thôi Tam nương biết được.
Thôi Tam nương đến nha môn đánh trống kêu oan, tố cáo Tam lang Tạ gia đã mua chuộc kẻ s//át nhân.
Chuyện này truyền ra, cả kinh thành náo động.
Trong kinh thành có rất nhiều công tử nuôi ngoại thất, nhưng Tạ Thận Chi có thể xem là người đầu tiên bị cắn ngược lại.
Ngay cả mẫu thân cũng gửi thư cho ta, cảm thấy may mắn vì cuối cùng ta đã gả cho Đại lang Tạ gia, nếu không thật sự chẳng có ngày nào được yên tĩnh.
Có lẽ chuyện này không phải là do Tạ Thận Chi làm ra, dù sao hai huynh đệ Thôi gia cũng kết thù với không ít người ở bên ngoài. Mà cho dù chuyện này có do Tạ Thận Chi làm ra, thì một nữ tử như Thôi Tam nương làm sao có thể lật đổ công tử Tạ gia được?
Ta đã từng hỏi Tạ Vọng Chi.
Hắn nói, nếu ta muốn biết chân tướng, có thể bảo cẩm y vệ đi thăm dò.
Ta suy nghĩ, nói không cần.
Chân tướng không phụ thuộc vào ta, mà phụ thuộc vào niềm tin của Thôi Tam nương. Cách hai mạng người, chỉ sợ rằng nàng ta và Tạ Thận Chi khó có thể hòa hợp được.
Lần tiếp theo ta gặp Tạ Thận Chi là ở gia yến của Tạ gia.
Trong bữa tiệc, nhị tẩu nổi hứng chơi đàn ngay tại chỗ, ta bèn lấy tiêu ra hòa âm.
Khi ngồi xuống, Tạ Thận Chi đã lột cho ta cả một đĩa thịt cua.
Tổ mẫu Tạ gia nhìn thấy, có chút cảm khái.
Bà kể, năm ấy bà và tổ mẫu của ta là tỷ muội thân thiết, chỉ là hai người đều lập gia đình riêng, đi theo phu quân khắp nơi để kiếm sống, dần dần cũng ít liên lạc với nhau. Không ngờ khi về già lại trở thành thông gia với nhau.
Tổ mẫu Tạ gia kể xong, cuối cùng im lặng rơi lệ, lại nhắc đến chuyện con cháu đều đã lập gia đình, chỉ còn đứa cháu út, Tạ Thận Chi, là chưa cưới vợ.
Bà thúc giục Tạ phu nhân, phải mau chóng hỏi vợ cho Tạ Thận Chi.
Tổ mẫu tuổi tác đã cao, người hầu lại có ý che dấu, bà vẫn chưa biết chuyện Thôi Tam nương.
Nhưng khắp kinh thành đều đang xôn xao, có nhà ai lại muốn gả cô nương tốt vào đây làm Tam phu nhân Tạ gia chứ.
Nghe nói Tạ phu nhân đã lén ra bên ngoài gặp nữ tử kia.
Ăn xong bữa cơm, mọi người đều có tâm sự riêng, bầu không khí vô cùng áp lực. Tạ Thận Chi chỉ ăn hai miếng rồi mượn có rời đi.
Đến đêm, khi người hầu đến bẩm báo có Tam công tử cầu kiến, ta gần như nghĩ rằng mình đã nghe nhầm.
Đã đến giờ này rồi, búi tóc của ta cũng đã tháo xuống, làm sao có thể đi gặp người ngoài được.
Ta sai người ra ngoài từ chối, có chuyện gì ngày mai hẵng nói.
Nhưng tiểu tư kia lại chạy về nói, Tam công tử khăng khăng không đi.
Ta ngẫm lại, suy cho cùng cũng là huynh đệ nhà mình, có lẽ là có chuyện gấp gì đó. Ta vừa mặc quần áo, vừa sai người đi báo với Tạ Vọng Chi một tiếng.
Sắc mặt của Tạ Thận Chi ửng đỏ một cách bất thường, hiển nhiên là sau khi rời bàn tiệc đã ra ngoài uống rượu.
Hắn ta gầy đi nhiều, chắc hẳn Thôi Tam nương đã gây rất nhiều khó khăn cho hắn ta.
Đêm khuya đến thăm hiển nhiên đã là không ổn, huống chi hắn ta lại giống như đang chặn đường ta thế này.
Có nha hoàn can đảm tiến lên mời hắn ta lui ra sau, Tạ Thận Chi cụp mắt một lát, rồi sau đó ngẩng đầu lên, không ngờ lại đang rưng rưng nước mắt.
Cuối cùng hắn ta cũng hối hận.
Hắn ta run giọng nói: “Ta và Thôi Tam nương… ta chẳng qua chỉ thương nàng ấy khổ cực…”
Ta nhớ đến cuộc trò chuyện của ta và Tạ Vọng Chi ngày ấy, có lẽ hắn ta đã nghe thấy.
Ta siết tay áo, nhìn hắn ta.
“Chẳng liên quan gì đến ta cả.” Ta nói: “Ngươi không cần phải giải thích với ta.”
Tạ Thận Chi hé miệng, thiên ngôn vạn ngữ, cuối cùng chỉ khàn giọng nhả ra một câu “Xin lỗi”.
Thật ra, có lỗi gì đâu?
Ta đã từng dập đầu ba ngàn lần trước tượng Phật để cầu nguyện cho hắn ta, cũng từng bị dây cương ngựa mài đến chảy máo.
Nhưng những việc đó đều là do ta đơn phương tình nguyện, không liên quan gì đến hắn ta.
Ta lắc đầu với hắn ta.
“Ngươi không nợ ta.”
Tạ Thận Chi, ngươi không nợ ta.
Nhớ đến kiếp nạn lớn trong đời hắn ta, ta gọi người lấy chuỗi tràng hạt trên tủ ra, giao lại cho hắn ta.
“Năm ấy ngươi từng cứu ta một mạng, tuy rằng sau đó mẫu thân ta cũng từng đến quý phủ đáp lễ, nhưng chỉ là mấy thứ vàng bạc tầm thường, suy cho cùng vẫn không thể biểu đạt được lòng biết ơn của ta. Nếu sau này ngươi có cần gì, Tô gia chúng ta ít nhiều gì cũng sẽ nói đỡ vài câu trong triều. Còn phu quân ta cũng có chút quan hệ ở bên ngoài. Nếu có chỗ nào cần giúp đỡ, ngươi cứ nói một tiếng là được.”
“Ta đã từng dâng chuỗi tràng hạt trước đức Phật nhiều năm, hy vọng có thể cầu bình an cho ngươi.”
Tạ Thận Chi ngơ ngác nhìn chuỗi tràng hạt kia, trái tim như bị một bàn tay to siết chặt.
Hắn ta cười khổ, trong ánh mắt tràn đầy chua xót.
“Ta thà là nàng hận ta. Chúng ta… chúng ta vốn nên…”
Tạ Thận Chi muốn tiến lên trước, đằng sau đột nhiên có một giọng nói lạnh lùng truyền đến:
“Tam đệ.”
Tạ Vọng Chi dưỡng bệnh đã lâu, vẫn luôn có dáng vẻ nhàn hạ.
Bây giờ hắn khoanh tay đứng dưới mái hiên, vạt áo phấp phới, ánh mắt nghiêm nghị đến đáng sợ. Ta chợt nhớ ra, người này là Chỉ huy sứ cẩm y vệ của Đại Tĩnh ta, chấp chưởng lao ngục của triều đình, đầy thủ đoạn âm hiểm.
“Bây giờ nàng đã là Đại phu nhân của Tạ gia, đêm hôm khuya khoắt, ngươi đến tìm Đại tẩu làm gì?”
Tạ Thận Chi ôm nỗi hận, nói: “Nếu không phải ta nhất thời hồ đồ, mối hôn sự này làm sao đến lượt ngươi chứ?”
Tạ Vọng Chi đứng trước mặt ta, nhìn về phía ấu đệ của hắn với vẻ mặt mang ý cảnh cáo, lạnh lùng vẫy tay:
“Tam công tử say rồi, người đâu, đưa hắn về nghỉ ngơi đi.”
Tạ Thận Chi vùng vẫy tránh khỏi người hầu muốn đỡ hắn ta về, giọng nói gần như mang theo tiếng nức nở:
“Đại ca, ngươi là con thứ, khi còn nhỏ mẫu thân ta ít nhiều gì cũng khắc khe với ngươi. Ta có làm sai chuyện gì, ngươi cũng thường xuyên chịu phạt thay ta… Mẫu thân nói ngươi thay ta thực hiện hôn ước này, với quyền thế của ngươi hôm nay, làm sao có thể nghe lời mẫu thân…”
“Là chính ngươi muốn cưới Tô tiểu thư, đúng không…”
Ta nhìn về phía Tạ Vọng Chi.
Hắn đứng chắn trước mặt ta, không thấy rõ biểu cảm, chỉ nghe thấy tiếng cười khẩy của hắn:
“Đúng thì sao?”
“Ta còn phải cảm ơn ngươi đấy, tam đệ.”
8.
Tạ Thận Chi trình chiết tử lên Thánh thượng, xin được dẫn quân đến Lĩnh Nam.
Có không ít con cháu thế gia ra chiến trường kiếm quân công, nhưng Lĩnh Nam lại là một ngoại lệ.
Lĩnh Nam rừng thiêng nước độc, có khi chưa kịp gi//ết ch//ết kẻ thù đã phải bỏ mạng trong sương mù hang rắn.
Đấy là nơi nguy hiểm nhất, ngay cả tiền lương khi tòng quân cũng cao hơn gấp đôi so với những nơi khác.
Chuyến này hắn ta đi, sống hay ch//ết khó mà đoán trước được.
Tạ phu nhân ốm nặng một trận.
Bà gần bốn mươi tuổi mới có được một đứa con, lại vì lời tiên đoán của tu sĩ mà phải gửi ấu tử đến chùa, cốt nhục chia lìa.
Không dễ gì con trai mới bình an lớn lên, lại khăng khăng muốn đến Lĩnh Nam chịu khổ.
Làm sao bà chịu được.
Nghe nói sau khi Tạ phu nhân khỏi bệnh, bà đã trút giận lên ta, cảm thấy ta đã gây ra tất cả khó khăn cho Tạ Thận Chi, lại tính tuổi, năm nay hắn ta vừa tròn mười chín tuổi, cũng xem như ứng với kiếp nạn trong đời.
Ma ma bên cạnh lén khuyên ta phải đề phòng Tạ phu nhân một chút, chỉ sợ bà nghĩ quẩn trong cơn nóng giận, làm ra chuyện gì đó không hay với ta.
Ta lắc đầu. Chưa nói đến gia thế hiển hách của Tô gia, chỉ nói riêng Tạ gia bây giờ, hơn phân nửa đã là do Chỉ huy sứ cẩm y vệ Tạ Vọng Chi chèo chống, bà không dám làm gì ta cả.
Tất nhiên không thể không đề phòng người khác, có điều người nên đề phòng không phải là ta.
Ta phái hai người theo dõi xung quanh chỗ Thôi Tam nương ở, nếu có chuyện gì thì âm thầm giúp đỡ.
Quả nhiên, vài ngày sau đã truyền đến tin tức, Thôi Tam nương suýt chút nữa bị trúng độc, bây giờ đã được đưa ra khỏi thành.
Từ nay về sau, trời đất bao la, không biết nàng ta sẽ đi về đâu.
Khi vết thương của Tạ Vọng Chi lành hẳn thì đã là cuối đông.
Hắn giữ chức vụ cao, bán mạng cho Thánh thượng, lại có nhiều thuộc hạ như vậy, vết thương vừa mới đóng vảy đã phải ra ngoài làm nhiệm vụ.
Người đời đều nói cẩm y vệ như Diêm Vương sống, nào có ai ngờ rằng, bên dưới lớp cẩm y của Chỉ huy sứ đại nhân đang thúc ngựa kia là thương tích đầy mình.
Đến ngày lập xuân, cuối cùng hắn cũng được nghỉ, đúng lúc thời tiết rất đẹp, bầu trời trong xanh như vừa được gột rửa, chúng ta quyết định đến trường đua để thăm hai chú ngựa con kia.
Một con tên là Táp Lộ, một con tên là Thanh Chuy.
Chúng đều đã lớn, da lông trên người bóng loáng dưới ánh mặt trời, thở phì phò, dùng tai cọ vào lòng bàn tay con người.
Tạ Vọng Chi đột nhiên có hứng thú, xoay người leo lên ngựa, toàn thân bừng sức sống, mặt mày rạng rỡ.
Hắn hơi nghiêng người về phía trước, nhướn mày nhìn ta:
“Nàng có dám đua ngựa với ta không?”
Nếu so cái khác, có thể ta sẽ do dự một lúc, nhưng hắn lại nói so tài cưỡi ngựa.
Ta ngẩng mặt lên nhìn hắn.
“Nếu chàng thua thì sao?”
Tạ Vọng Chi chắp tay cười nói: “Mặc cho phu nhân xử trí.”
Trái tim ta chợt hẫng một nhịp.
Sau khi thành hôn, Tạ Vọng Chi đã từng gọi ta là phu nhân rất nhiều lần.
Nhưng lại giống như đang làm theo lệ, chỉ là một cách xưng hô mà thôi, chẳng khác gì đang gọi con chó con mèo cả.
Chứ không giống như bây giờ, ánh mắt mang nét cười, tùy tiện phóng khoáng.
Ta có chút ngại ngùng, quay mặt đi, hơi sẵng giọng: “Chàng nói thì nhớ giữ lời.”
Vạt áo bị gió thổi tung, xung quanh bụi đất mịt mù, tiếng vó ngựa như sấm. Ta chưa từng cưỡi ngựa nhanh đến thế, đến cả gió thổi vào mặt cũng như một lưỡi dao. Nhưng ta vẫn cắn chặt răng, siết chặt bụng ngựa, hung hăng vung roi, phóng nhanh như sao băng.
Tạ Vọng Chi theo sát bên cạnh ta, gần như chạy song song với ta.
Cả quãng đường phi nước đại, tất cả phiền muộn đều bị bỏ lại phía sau. Ta thở ra luồng khí nghẹn trong lồng ngực, chỉ cảm thấy khoan khoái hết cả người.
Vượt qua khe suối cuối cùng chính là điểm cuối của trang trại ngựa.
Ta vung roi ngựa, dùng sức quất thật mạnh. Thanh chuy vùng lên hí một tiếng, nhảy qua những tảng đá dưới khe suối trước một bước.
Ta thắng rồi.
Trong lòng rạo rực vô cùng.
Ta điều khiển ngựa, quay đầu lại phi nước đại lên thượng nguồn của dòng suối, lớn tiếng hô tên hắn:
“Tạ Vọng Chi!”
“Sao?”
Hắn cũng đang cười, đôi mắt sáng rực, khóe miệng khẽ cong lên.
“Tại sao chàng lại muốn cưới ta?”
Ta là đích nữ của Tô gia, vốn đã có hôn ước với Tạ gia.
Nhưng tại sao chàng lại muốn cưới ta.
Ta muốn nghe lý do mà ta chưa từng biết.
Rốt cuộc là vì sao.
Tạ Vọng Chi cười lớn: “Ta biết ngay là nàng sẽ hỏi cái này mà. Ta nói rồi, nàng không được tức giận đâu đấy. Ta cưỡi ngựa không giỏi bằng nàng, nếu nàng tức giận chạy đi mất, ta không thể đuổi kịp được đâu.”
Ta nâng roi ngựa lên hứa:
“Không tức giận, chàng nói đi.”
“Ban đầu là vì tò mò, không biết cô nương dám từ chối Tạ Thận Chi ở ngay trên phố có dáng vẻ ra sao. Nàng cũng biết rồi đấy, thuở nhỏ ta và Tạ Thận Chi đã có chút xích mích.”
“Sau này, ta nghe cô nương kia nói, nàng ấy ngưỡng mộ ta đã lâu. Nàng ấy nghiêm túc bịa ra một lời nói dối…”
“Ngừng! Không được nói nữa!”
Ta cực kỳ xấu hổ, tức giận muốn vọt đến dạy dỗ Tạ Vọng Chi một trận. Nhưng hắn đã có chuẩn bị từ trước, lớn tiếng cười to, vung roi lên, thúc ngựa phi nhanh về phía trước.
“Tô Mộ Vân, nàng có dám đấu với ta một lần nữa không?”
“Đấu cái gì?”
“Đấu cái gì không quan trọng, chỉ là người thua phải ở bên cạnh người thắng cả đời.”
Ánh nắng chói chang, mùi cỏ xanh tràn ngập cả không gian, dòng suối phản chiếu ánh sáng lấp lánh, người nọ ngồi trên lưng ngựa, nở nụ cười trên môi.
Trong lòng ta chợt rung động, thúc ngựa đuổi theo.
“Đấu thì đấu, ai sợ ai chứ?”
(Hoàn Chính Văn)