Trong đầu ta bỗng có một tia sáng lướt qua, nhớ lại lúc ý thức ta sắp tiêu tan, trước mắt đột nhiên xuất hiện nhiều tờ giấy lơ lửng, chi chít viết đầy chữ “Oan”.
Chẳng lẽ đây là một gợi ý?
Trời cao cho ta cơ hội trọng sinh, liệu có phải để ta rửa sạch nỗi oan cho phụ thân?
Bỗng nhiên cửa trà lâu trở nên náo nhiệt, ta giật mình quay đầu lại, vừa vặn chạm phải một đôi mắt sắc sảo màu hổ phách.
Đó là Thẩm Nhất Mưu, Thiếu khanh Đại Lý Tự.
Hắn nhìn ta, sững sờ một lát, đồng liêu bên cạnh liền trêu ghẹo:
“Thẩm đại nhân, cố nhân gặp mặt, chẳng lẽ không định chào hỏi?”
Thẩm Nhất Mưu nhíu mày, vẻ mặt vô cùng khó chịu, giọng nói lạnh lẽo:
“Ta và nữ tử này chẳng hề liên quan, Dương đại nhân nếu thích ăn nói lung tung, coi chừng nửa đêm bị người ta cắt lưỡi.”
Khóe miệng ta giật giật.
Năm xưa, ta thầm mến Thẩm Nhất Mưu, vì hắn mà dốc hết tâm huyết, cả kinh thành đều biết.
Nhưng khi gia đình ta gặp nạn, hắn lại đóng cửa không gặp, khiến lòng ta nguội lạnh từ lâu.
Giờ đây, hắn còn có mặt mũi khinh thường ta.
Nực cười.
Ta đứng dậy, phất tay:
“Xuân Hỷ, về nhà thôi.
Chỉ là ra ngoài uống chén trà cũng gặp phải ôn thần, thật quá xui xẻo.”
Thẩm Nhất Mưu khẽ giật mi mắt, lặng lẽ dời tầm nhìn, đôi tay gầy guộc trong ống tay áo siết chặt lại.
Bước ra khỏi trà lâu, trong đầu ta cứ lặp đi lặp lại hình ảnh những tờ giấy lơ lửng, nghĩ mãi vẫn không ra được đầu mối gì.
Xuân Hỷ chạy theo, vội vàng nói:
“Phu nhân, thư của Cố đại nhân, người còn chưa đọc đâu!”
Cố Hành Uyên…
Ta dừng bước, quay đầu nhìn phong thư trong tay nàng, trong đầu bỗng hiện lên cảnh tượng hắn thổ huyết khi ta chết, lòng ta chợt run lên.
Hắn đi Yến Môn một năm, ta chưa từng gửi một lời nhắn, nhưng hắn vẫn mỗi tháng đúng hẹn viết thư về, sự cố chấp ấy khiến người ta khó hiểu.
“Đưa ta xem.”
Ta nhận thư, mở ra, vẫn là bốn chữ đơn giản: “Bình an, đừng nhớ”.
Tim ta bất giác nhói lên.
Tất cả yêu thương giấu kín, tất cả hy vọng hắn cất trong lòng, đều được gửi gắm vào bốn chữ ngắn ngủi này.
Phía trước, nhiều phụ nhân đang tụ tập, ôm theo những bọc lớn, dường như là đang nhờ người gửi đồ.
Xuân Hỷ liếc nhìn, nói:
“Trời lạnh rồi, các phu nhân đều may y phục ấm gửi cho phu quân ở biên cương.
Không biết Yến Môn có lạnh không, Cố đại nhân lúc đi mặc áo mỏng, giờ chắc đã lạnh cóng.
Ai cũng có áo ấm, chỉ riêng ngài ấy không có, thật đáng thương.
Nhưng thôi, ngài ấy chắc đã quen rồi…”
Xuân Hỷ nói câu nào cũng như đang ám chỉ, sao trước đây ta không nhận ra nhỉ?
Không đúng, không phải ta không nhận ra, mà là ta không để tâm.
Bỗng nhiên, ta cảm thấy mình đúng là tội nghiệt sâu dày.
“Được rồi, Xuân Hỷ,” ta xoa trán:
“Mua hai bộ áo ấm gửi cho Cố đại nhân.”
Áo may mới chắc không kịp, nhưng ta nghĩ hắn sẽ không bận tâm chuyện đó.
Có còn hơn không.
Xuân Hỷ tròn mắt, dường như không tin, rồi lập tức gật đầu mạnh:
“Vâng thưa phu nhân!
À, phu nhân, người có muốn gửi kèm một lá thư không?”
Ta chưa từng viết thư cho hắn.
Từ trước đến nay ta đối xử lạnh nhạt, giờ bỗng quan tâm, liệu có kỳ lạ?
Thôi, cứ viết vậy.
Ta rẽ vào trạm bưu dịch, lấy giấy bút, suy nghĩ hồi lâu vẫn không biết viết gì.
Ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, không biết từ bao giờ, tuyết lớn như lông ngỗng đã rơi phủ đầy, xen lẫn giữa khung cảnh nhân gian nhộn nhịp.
Sắp Tết rồi nhỉ.
Kiếp trước, Cố Hành Uyên về kinh trước Tết.
Nhưng lúc ấy, ta lạnh nhạt với hắn, đóng cửa tụng kinh, không hề gặp mặt.
Đêm giao thừa, hắn mời ta cùng thức đón năm mới, ta thấy phiền, liền hắt chén trà lạnh lên người hắn, rồi đóng sập cửa.
Hắn đứng trong tuyết suốt đêm, tóc và lông mày đều đóng băng.
Đợi đến khi pháo nổ đón giao thừa, hắn khẽ tự nhủ:
“Phu nhân, năm mới vui vẻ.
Mong rằng chúng ta sẽ mãi như vậy, năm nào cũng xuân sắc như ý.”
Từ đó, hắn không còn đến quấy rầy ta nữa.
Đến ngày hắn quay lại Yến Môn, cũng dặn dò Xuân Hỷ đừng báo cho ta, sợ làm phiền sự thanh tịnh của ta.
Những điều hắn làm vì ta, từng việc từng việc, như hiển hiện trước mắt.
Nghĩ lại, mới thấy lòng ta khi ấy quả thật là sắt đá.
Ta khẽ thở dài, cúi đầu cầm bút, cẩn thận viết tám chữ:
“Năm hết tết đến, mong chàng sớm về.”
3
Sau khi gửi thư cùng áo ấm đi, Xuân Hỷ vui vẻ lẩm bẩm suốt dọc đường:
“Chờ Cố đại nhân nhận được, nhất định sẽ rất vui!”
Ta không biết hắn có vui không, cũng chẳng buồn suy nghĩ, lúc này, ta chỉ muốn minh oan cho phụ thân.
Nghĩ tới nghĩ lui, chỉ có thể bắt đầu từ những kẻ đời trước từng dâng chứng cứ buộc tội phụ thân ta mà âm thầm theo dõi.
Thế nhưng, không rõ do phương hướng của ta sai lầm hay bọn chúng quá cẩn thận, ta đã giám sát gần một tháng mà chẳng thu hoạch được gì.
Mọi chuyện lại rơi vào bế tắc.
Cho đến ngày 20 tháng Chạp, khi ta đi ngang qua Đại Lý Tự, từ xa trông thấy các nha dịch hối hả ra vào như kiến dời tổ, hiếu kỳ hỏi thăm thì biết được, hóa ra Đại Lý Tự lâu năm không tu sửa, mấy gian nhà bị sập, hiện đang dọn dẹp chuẩn bị sửa chữa.
Đột nhiên trong đầu ta lóe lên một ý tưởng.
Hiện tại Đại Lý Tự hỗn loạn thế này, có lẽ ta có thể nhân cơ hội tìm kiếm hồ sơ vụ án của phụ thân.
Chỉ là, trong Đại Lý Tự, người duy nhất ta quen biết chính là Thẩm Nhất Mưu.
Nhưng tháng trước, ta vừa mắng hắn ở trà lâu.
Lúc ấy ta thật hồ đồ.
Biết trước hắn còn có giá trị, ta nhịn một chút thì đã sao?
Ta rơi vào khó xử.
Nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng đành mặt dày mua một ít lễ vật, tìm đến nhà họ Thẩm.
Ngày xưa, nhà họ Thẩm và nhà họ Tiết giao hảo, ta muốn vào Thẩm phủ chỉ cần một lời là đủ.
Nhưng nay nhà ta đã suy bại, ta phải đứng chờ ngoài cổng đến nửa canh giờ mới được dẫn vào.
Tiếp đón ta là mẫu thân của Thẩm Nhất Mưu.
Bà đứng ở hành lang, ánh mắt sắc như dao:
“Ngươi đã là người có phu quân, còn đến quấy rầy nhị lang nhà ta làm gì?”
Ta không tiện nói rõ mục đích đến đây, chỉ khẽ cười:
“Ta và Thẩm lang quen biết từ thuở nhỏ, vốn là bạn thân.
Từ khi xuất giá đã lâu không gặp, hôm nay nhân dịp Thẩm lang được nghỉ, đến thăm hỏi, ôn lại chuyện cũ.”
“Ôn chuyện? Chẳng lẽ ngươi vẫn còn ý đồ với nhị lang nhà ta?”
Ánh mắt khinh bỉ của bà khiến ta như ngồi trên đống gai, nhưng vì cầu người làm việc, ta không dám làm càn, đành cắn răng nhịn, cười càng dịu dàng hơn:
“Phu nhân hiểu lầm.
Từ khi ta xuất giá, cùng phu quân hòa hợp như đàn cầm và đàn sắt, ân ái vô cùng.
Làm sao có thể nảy sinh ý nghĩ sai trái với người khác?”
“Hòa hợp?
Ta lại nghe nói, ngươi lấy phu quân hai năm, cùng Cố Hành Uyên chưa nói với nhau được mấy câu, đó gọi là hòa hợp sao?”
“Người ngoài biết gì chứ? Phu thê có hòa hợp hay không, chỉ có người trong cuộc rõ ràng. Thí dụ như phu nhân với phu quân của mình, chuyện chăn gối lẽ nào cũng kể cho người ngoài nghe sao?”
“Ngươi!”
Sắc mặt bà đỏ bừng, không biết phải nói gì thêm.
Đúng lúc này, cánh cửa sau lưng bà mở ra, Thẩm Nhất Mưu lạnh nhạt liếc nhìn ta một cái, rồi nói:
“Mẫu thân, cứ để nàng vào đi.”
“Bậy nào, nhị lang, sao con lại gặp cái sao chổi này làm gì chứ!”
Ánh mắt Thẩm Nhất Mưu trầm xuống, không nói gì thêm.
Mẫu thân hắn cãi không lại, đành hậm hực phất tay áo, giận dữ bỏ đi.
Hắn quay sang nhìn ta, lạnh nhạt hỏi:
“Nói đi, có chuyện gì.”
Ta gãi đầu, cười gượng:
“Khụ khụ, vào trong rồi nói.”
Vừa bước chân định vào, hắn đã chắn lại, không chừa lấy một chút đường.
“Nói ở đây, nói xong đi ngay.”
“Chuyện này…”
Không còn cách nào, ta đành hạ giọng:
“Ta muốn nhờ ngươi một việc, tìm giúp hồ sơ vụ án của phụ thân ta…”
Chưa dứt lời, bàn tay lạnh lẽo của hắn đã bịt chặt miệng ta.
“Ưm?”
Hắn cảnh giác nhìn quanh, sau đó kéo mạnh ta vào phòng, đóng cửa lại, giọng nghiêm nghị:
“Ngươi cần hồ sơ ấy làm gì?”
Ta hất tay hắn ra, vội vàng nói:
“Thẩm Nhất Mưu, phụ thân ta bị oan, ta muốn xem hồ sơ để minh oan cho người!”