Ngày đó, Tạ Hành đi chùa Thừa Phúc thắp hương cho mẫu thân. Trên đường lên núi, hắn đi ngang qua một quầy bán mặt nạ. Không hiểu sao lại dừng lại mua chiếc mặt nạ mèo trắng nằm bên cạnh mặt nạ “chó hoa đào.”
Hắn vốn định mua mặt nạ chó hoa đào, nhưng lại cảm thấy như vậy giống đang bắt chước người khác, nên chọn mặt nạ mèo trắng.
Sau khi thắp hương xong, khi đang xuống núi thì trời bất chợt đổ mưa lất phất. Hắn tiện tay đeo mặt nạ lên, và chính lúc đó sát thủ xuất hiện.
Sát thủ quá đông, thị vệ của hắn bị cuốn vào vòng vây, không thể bảo vệ hắn chu toàn. Trọng Vân lo hắn bị thương hoặc mắc mưa sẽ nhiễm phong hàn, bèn để hắn tìm nơi trú tạm.
Vết bỏng trên tay gặp nước mưa đau thấu xương, đầu óc cũng bắt đầu mơ hồ. Lúc ấy, hắn mới nhận ra mình có lẽ đã bị sốt. Hắn lảo đảo đi về phía trước, trong màn mưa lớn mơ hồ thấy một ngôi miếu bỏ hoang, nhưng ý thức cũng dần mờ đi.
Trước khi ngã xuống, hắn dường như thấy có người đứng ở đó. Sau khi ngã, người đó hình như chạy về phía hắn.
Hắn không nhìn rõ mặt người kia, thậm chí không thể phân biệt là nam hay nữ.
Chiếc chuông bạc này là Trọng Vân nhặt được cạnh cây trâm gãy của hắn. Đây là một chiếc chuông bạc có thiết kế rất đặc biệt. Trọng Vân nói có khả năng là của người đã cứu hắn làm rơi.
Từ chiếc chuông bạc này, không thể suy đoán chủ nhân của nó là nam hay nữ. Nhưng hắn nghĩ, người có thể mang hắn – một kẻ đang hôn mê – đến miếu Thành Hoàng mà không làm hắn bị thương, còn hong khô cả áo ngoài lẫn áo lót, chắc chắn không thể là nữ tử.
Về chiếc chuông này, Trọng Vân đã điều tra mấy ngày nhưng không thu được manh mối gì.
Trọng Vân nói mặt nạ của hắn chưa từng bị tháo ra, điều đó có nghĩa là người cứu hắn không nhìn thấy mặt hắn, cũng không phải vì thân phận của hắn mà ra tay cứu giúp.
Có lẽ đây đơn giản chỉ là một lần may mắn, gặp được một người tốt bụng.
Tạ Hành dời ánh mắt khỏi chiếc chuông bạc, khẽ nhếch môi cười giễu, thầm nghĩ:
“Cũng có thể, nếu người đó biết ta là ai, chưa chắc đã cứu ta.”
Ngày hôm sau, Lưu Tương và Tống Trường Sách đều không được ra khỏi phủ.
Lão quản gia ngày ba lượt đến kiểm tra, trông chừng họ chặt chẽ, sợ họ lẻn ra ngoài.
Đến ngày thứ ba, Lưu Tương thực sự không chịu nổi nữa, bèn cùng Tống Trường Sách phối hợp một màn năn nỉ ỉ ôi, cuối cùng cũng khiến lão quản gia mủi lòng, cho phép họ ra ngoài.
Nhưng còn chưa kịp giãn gân giãn cốt, người của Lưu Thanh Dương đã đến, truyền lời rằng nửa canh giờ sau phải đến Kiều gia.
“Kiều gia?”
Tống Trường Sách nhíu mày, trầm ngâm:
“Nghe có chút quen tai.”
Lời vừa dứt, tai y lập tức bị vặn mạnh, khiến y hét lên the thé:
“Á á đau đau đau, mẹ ơi đau quá!”
“Trước khi hồi kinh ta đã nói với con cả rồi, con quên sạch hết rồi đúng không?”
Không biết từ khi nào Tống phu nhân đã xuất hiện. Một tay bà chống hông, tay kia vặn tai Tống Trường Sách, giọng nói trong trẻo nhưng mang theo vẻ chanh chua:
“Còn dám nói nghe quen! Ta hỏi con, Kiều gia là nơi nào?”
Lưu Tương mím môi, âm thầm lùi lại một bước.
Nàng vô cùng đồng cảm với Tống Trường Sách, nhưng tuyệt đối không định nhúng tay vào.
Tống Trường Sách đau đến nhăn nhó, buộc phải cúi gập người, nghiêng đầu hét lên:
“Mẹ ơi, tai sắp rụng mất rồi! Con nhớ ra rồi, nhớ ra rồi! Kiều gia là nhà ngoại của tướng quân.”
Tống phu nhân, tức Dương thị, vốn người đất Thục. Năm xưa, Tống Hoài Giang đi công vụ, trên một thị trấn nhỏ tình cờ gặp Dương thị. Nàng vừa nhìn đã trúng ý chàng thiếu niên tuấn tú trên lưng ngựa, còn Tống Hoài Giang cũng bị cuốn hút bởi sự bạo dạn, tươi tắn và tinh tế của nàng.
Sau khi công vụ hoàn thành, Tống Hoài Giang trang trọng đến tận cửa cầu hôn. Dương thị cũng không kiểu cách, lập tức đồng ý.
Chỉ trong vòng nửa năm, hôn sự đã được định đoạt.
Dương thị thả tay, trừng mắt nhìn Tống Trường Sách, nghiêm giọng:
“Nếu ta còn nghe ngươi nói những lời không đứng đắn như vậy, xem ta xử lý ngươi ra sao!”
Tống Trường Sách ôm tai, uất ức nhìn bà:
“Con biết rồi, mẹ.”
Dương thị hừ lạnh một tiếng, quay sang Lưu Tương, nét mặt lập tức nở nụ cười rạng rỡ:
“Tiểu thư, vết thương đỡ hơn chưa? Còn đau không?”
Tốc độ thay đổi biểu cảm của bà quả thực đáng kinh ngạc.
Lưu Tương lúc này mới bước lên, khoác tay bà, thân thiết nói:
“Không đau nữa rồi, thưa thẩm thẩm.”
Lưu Tương từ nhỏ đã bú sữa của Dương thị mà lớn.
Khi đó, Kiều thị bệnh nặng, không thể cho con bú. Vừa hay Tống Trường Sách mới sáu tháng tuổi, Dương thị không thuê nhũ mẫu khác, liền nhận nuôi luôn Lưu Tương vừa mới sinh. Sau khi Kiều thị qua đời, Lưu Thanh Dương chìm trong đau buồn, không chăm sóc nổi Lưu Tương, nên Dương thị mang luôn nàng về phòng mình nuôi.
Theo lời bà: “Một đứa cũng nuôi, hai đứa cũng nuôi, cho chúng có chị có em, cũng đỡ lẻ loi.”
Dương thị từng kể, hồi còn nhỏ, hai đứa trẻ giành sữa, giành mẹ, nhìn nhau chẳng vừa mắt, suốt ngày ẩu đả, gây ra không ít chuyện cười.
Sau này, Lưu Thanh Dương xin đi trấn giữ biên cương, Tống Hoài Giang từ chối phong hàm của triều đình, khăng khăng tiếp tục làm phó tướng. Dương thị không một lời oán thán, thu xếp hành lý cho hai đứa trẻ rồi theo chồng ra biên cương, một đi là mười tám năm.
Trong mười tám năm đó, Dương thị coi Lưu Tương như con ruột, còn chăm chút hơn cả con trai mình.
Mỗi lần nhắc đến chuyện quân côn, Dương thị lại giận sôi:
“Tống Hoài Giang, cái đồ đáng chết đó, hôm ấy dám nhốt ta trong phòng. Nếu không, sao có thể để tiểu thư phải chịu trận đòn?”
Tống Trường Sách trợn tròn mắt:
“Mẹ! Vậy hóa ra, dù không bị nhốt, mẹ cũng sẽ không cứu con đúng không?”
Dương thị hừ lạnh, nói đầy khó chịu:
“Con trai mà chịu vài gậy thì làm sao, bây giờ chẳng phải vẫn nhảy nhót tung tăng đó thôi.”
Tống Trường Sách: “…”
Hóa ra hôm đó mình gào khóc chỉ tổ phí hơi. Cổ họng mình khản cả đi mà chẳng có tác dụng gì!
“Được rồi, bàn chuyện chính đi, đừng xen ngang.”
Dương thị làm ngơ trước ánh mắt oán trách của Tống Trường Sách, quay sang Lưu Tương, giọng nói trở nên dịu dàng:
“Tiểu thư, đây là lần đầu về Kiều gia, phải chuẩn bị cẩn thận. Để ta kể cho tiểu thư nghe về Kiều gia.”
Lưu Tương gật đầu:
“Dạ được.”
Trong vườn hoa đang nở rộ, Lưu Tương khoác tay Dương thị, vừa đi vừa lắng nghe. Tống Trường Sách thì lặng lẽ đi theo phía sau.
“Kiều gia vốn là danh môn thư hương của Ngọc Kinh, từng có mấy đời đảm nhiệm chức Đế sư. Kiều lão tiên sinh hiện nay chính là Đế sư của triều đình, nhưng vì tuổi cao đã về hưu vài năm trước.”
Dương thị chậm rãi kể:
“Kiều gia có quy định không nạp thiếp, nên nhân khẩu trong nhà khá đơn giản.”
“Kiều lão tiên sinh là độc đinh của Kiều thái gia. Kiều lão tiên sinh và lão phu nhân có hai con trai, một con gái. Phu nhân chính là tiểu nữ của đời ấy.”
“Đại công tử Kiều hiện là Hàn lâm học sĩ, Đại phu nhân xuất thân từ danh môn họ Thôi; Nhị công tử Kiều hiện giữ chức Quốc tử giám Tế tửu, Nhị phu nhân là thiên kim của danh gia họ Tần ở Giang Nam.”
Lưu Tương nhớ rằng Lưu Thanh Dương từng kể sơ lược về ngoại gia của nàng, nhưng khi đó nàng chỉ nghe qua loa, ấn tượng không rõ ràng. Nay nghe Dương thị kể chi tiết, nàng chăm chú lắng nghe từng lời.
“Phòng lớn có hai công tử sinh đôi, Đại công tử tên Kiều Tương Niên, Nhị công tử tên Kiều Hữu Niên. Phòng hai có hai cô nương, Tam tiểu thư Kiều Nguyệt Hoa, và Tứ tiểu thư Kiều Nguyệt Thư. Tứ tiểu thư năm nay mười sáu, Tam tiểu thư lớn hơn tiểu thư mấy tháng.”
Lưu Tương gật đầu hiểu rõ.
“Đại công tử vừa mới đội mũ (đạt tuổi trưởng thành), hiện đang làm ở Hàn lâm viện. Còn Nhị công tử…”
Dương thị thoáng ngập ngừng, rồi mới nói tiếp:
“Hiện đang làm ở Hình bộ.”
Lưu Tương ngẩn ra:
“Hình bộ sao?”
Nàng nghe rất rõ, Kiều gia vốn là danh môn thư hương, bao đời đều theo con đường văn nghiệp, không hề có ngoại lệ. Việc Nhị công tử Kiều gia vào Hình bộ quả thực khiến người ta bất ngờ.
“Ừm.”
Dương thị tiếp tục nói:
“Đại phu nhân Thôi thị thì quý phái, ít nói ít cười. Nhị phu nhân Tần thị người Giang Nam, dịu dàng hiền thục. Đại công tử thì giống Đại phu nhân, ánh mắt sắc bén như dao. Nhị công tử thì trong sáng, hay cười. Tam tiểu thư tinh thông cầm kỳ thư họa, đặc biệt giỏi thư họa. Tứ tiểu thư hoạt bát đáng yêu, giỏi âm luật, múa cũng rất đẹp.
Tiểu thư nhớ kỹ nhé, dù họ là thân thích máu mủ, nhưng vẫn cần giữ sự chu đáo để duy trì tình thân lâu dài.”
Lưu Tương nghiêm túc ghi nhớ từng lời, rồi tò mò hỏi:
“Thẩm thẩm bao năm ở biên cương, sao lại biết rõ vậy?”
Dương thị mỉm cười:
“Mấy ngày qua, phủ liên tục có khách đến chơi. Ta nghe được khi trò chuyện với các phu nhân.”
Phủ tướng quân không có nữ chủ nhân, nên mỗi khi có nữ khách đến, đều do Dương thị tiếp đãi.
“Thôi nào, cũng không còn sớm nữa, chắc bên tướng quân cũng chuẩn bị xong rồi.” Dương thị nói tiếp:
“Ta đã chuẩn bị quà cho tiểu thư, đều đặt trên xe ngựa cả. Tiểu thư nhớ kiểm tra kỹ, đừng gửi nhầm. Kiều gia là danh môn thư hương, tiểu thư không được nghịch ngợm như bình thường đâu. Nhớ thay bộ xiêm y mới. Hôm qua ta đưa đến một bộ màu đỏ tươi, vừa đẹp vừa rực rỡ.”
“Cảm ơn thẩm thẩm.”
Lưu Tương ngoan ngoãn gật đầu:
“Thẩm thẩm yên tâm, con nhất định sẽ cư xử thật tốt.”
Dương thị yêu thương, chạm nhẹ vào chóp mũi nàng, cười nói:
“Tiểu thư của chúng ta ngoan nhất, Kiều gia nhất định sẽ rất thích tiểu thư.”
Tống Trường Sách đứng cạnh, vẻ mặt không cảm xúc nhìn cảnh này.
Dù đã quen, nhưng y vẫn không khỏi thầm than trong lòng:
Chẳng lẽ ta là con nhặt về sao?
Dương thị lúc này mới nhớ đến y, quay sang nghiêm nghị nói:
“Hôm nay ngươi không được đi theo, tránh gây rắc rối làm khó tướng quân.”
Tống Trường Sách: “…”
Chẳng lẽ ta là vua gây họa chắc?
Dù uất ức, y vẫn không cãi lại, chỉ buồn bực đáp:
“Vâng.”
Dương thị lại nói:
“Hai ngày trước, tướng quân đã vào cung trình bày công trạng. Thánh thượng ghi nhận công lao trấn thủ biên cương, đánh lùi địch quân, nên ngày mai sẽ tổ chức tiệc tiếp đón tại Lộ Hoa Đài. Đến lúc đó, tiểu thư cũng phải vào cung tham dự.”
Nói rồi, Dương thị quay sang Tống Trường Sách, tiếp tục:
“Còn ngươi, ta đã âm thầm nhờ người mời một vị ma ma từng làm trong cung đến. Sau khi từ nhà họ Kiều về, ngươi và tiểu thư cùng phải học lễ nghi trong cung.”
Nghe vậy, Tống Trường Sách và Lưu Tương cùng nhìn nhau đầy ngỡ ngàng.
Lễ nghi trong cung?
Tống Trường Sách khổ sở, không kiềm được mà phản đối:
“Tại sao chứ? Chẳng lẽ chúng ta thô tục, kém cỏi đến mức không thể ra mặt sao? Vậy tại sao còn phải lén lút mời?”
Hihi