Chàng thiếu niên năm nào, giờ là một vị tướng quân trẻ tuổi, cưỡi chiến mã trở về nơi tâm can nhung nhớ.
Người trông coi tửu quán trong thành Ngô Châu cuối cùng cũng đợi được lang quân của mình.
Nếu câu chuyện kết thúc tại đây, mọi thứ hẳn sẽ đẹp đẽ như trong thoại bản.
Nhưng trời cao không chiều lòng người.
Cách đó ngàn dặm, một đạo thánh chỉ từ kinh thành ban đến đã định đoạt lần chia ly thứ hai của chúng ta.
Ta và Tạ Hoài Cật quen biết trong lúc khó khăn, kết tóc khi còn trẻ.
Hắn là người trọng lời hứa, với ta càng luôn nói được làm được.
Nhưng duy chỉ có ba việc, hắn lại phụ lòng ta vì sự giấu giếm của mình.
Thứ nhất, hắn chưa bao giờ là một thường dân nghèo khó.
Hắn là trưởng tử của Bình Dương hầu phủ, một gia tộc danh giá.
Cha hắn, Bình Dương hầu, sủng thiếp diệt thê. Sau khi nhà ngoại của hắn thất thế, hắn bị người khác hãm hại, phải theo lão bộc bôn ba tới Ngô Châu.
Mãi đến khi lập được nhiều chiến công nơi quân đội, hắn mới được đám quý tộc kinh thành chú ý đến vị “con cháu thế gia” đã im hơi lặng tiếng lâu nay này.
Tề quốc công, người nổi tiếng dũng mãnh thiện chiến, vô cùng tán thưởng hắn, muốn gả con gái duy nhất của mình cho hắn.
Thánh chỉ ban hôn cũng từ đó mà đến.
Thứ hai, Tạ Hoài Cật nói với ta: “Chỉ cần trình lên bệ hạ rằng ta đã thành thân, có thể xin bệ hạ thu hồi chỉ dụ.”
Nhưng trên triều đình, Bình Dương hầu lại một mực phủ nhận chuyện Tạ Hoài Cật và ta đã thành thân: “Đường đường là con trai hầu phủ, sao có thể không có sự cho phép của cha mẹ mà tự ý cưới một nữ tử nơi phố chợ?”
Vì thế, Tạ Hoài Cật buộc phải tranh biện với ông ta ngay tại triều đường.
“Ta và Tĩnh Diểu tình đầu ý hợp, lân lý hương thân đều có thể làm chứng!”
Kết quả, Tiên đế lấy lý do hắn “bất kính với cha, không giữ đúng lễ”, phạt hắn năm mươi trượng, đóng cửa suy nghĩ.
Khi được đưa trở về Bình Dương hầu phủ, Tạ Hoài Cật đã mình đầy máu me, thương tích chồng chất.
“Đừng khóc.”
Hắn mặt mày tái nhợt, run rẩy lau đi nước mắt trên mặt ta, khóe môi cố nở một nụ cười nhạt:
“Ta làm sao nỡ để A Diểu của ta phải làm quả phụ.”
May mắn thay, ngày hôm sau, Tề quốc công vào cung yết kiến, chủ động xin Tiên đế thu hồi thánh chỉ ban hôn.
Bình Dương hầu vì chuyện này mà nổi trận lôi đình: “Đồ nghịch tử! Vì một thôn phụ hèn mọn mà dám đối nghịch với thiên uy, thật là đồ vô dụng! Thà chết quách ở Ngô Châu thì hơn, đừng có trở về!”
Để giúp Tạ Hoài Cật nhanh chóng hồi phục vết thương, ta đã lén dùng bạc nhờ quản sự trong hầu phủ ra ngoài mua thuốc bổ.
Kết quả, quản sự đã nuốt trọn số bạc ấy, chỉ dùng dược liệu kém chất lượng để qua loa với ta:
“Ngươi có chút tiền cỏn con mà cũng đòi mua dược liệu thượng hạng sao?”
Ta thực sự tức giận, liền trốn ở góc tường ngoài phòng, nhỏ giọng chửi rủa: “Phi, cái thứ hầu phủ chó má, toàn một lũ lòng lang dạ sói!
“Kinh thành cũng chỉ đến thế này thôi, sau này cho dù có van xin ta, bà cô đây cũng không thèm quay lại cái nơi thối nát này!”
Vừa mắng, nước mắt ta như chuỗi ngọc đứt dây, không ngừng rơi xuống.
“Tất cả là tại Tạ Đại Bảo, đồ lừa gạt, đại lừa gạt!
“Sao lại ngốc như thế, cứ phải kháng chỉ làm gì, sao không lén đưa ta trốn về Ngô Châu!
“Xem ra mắt nhìn người của ta thật kém, mệnh cũng chẳng tốt đẹp gì.”
8.
Trong tiểu viện, mặt trời đã lặn về phía Tây, quạ đen kêu vài tiếng.
Ta vừa ngẩng đầu từ giữa hai đầu gối, liền thấy Tạ Hoài Cật đang dựa vào lan can, nửa ngồi trên mặt đất.
Hắn lặng lẽ nhìn ta, ánh mắt chứa đầy áy náy và ôn nhu.
Dưới người hắn là hai vệt máu sẫm màu dài đã khô.
Thấy ánh mắt ta lướt đến cánh tay hắn, Tạ Hoài Cật liền khẽ cử động, giấu tay ra sau lưng.
Nghĩ cũng biết, hắn hiện tại hành động khó khăn, chắc là nghe tiếng khóc của ta, dùng sức từ đôi tay, bò từ trên giường ra ngoài.
Hai khuỷu tay hẳn lại thêm chằng chịt vết thương.
“Đồ ngốc.” Ta mắng.
Hắn hỏi: “Đồ ngốc mắng ai?”
Ta đáp: “Đồ ngốc mắng ngươi.”
Khoảnh khắc tiếp theo, cả hai không hẹn mà cùng bật cười.
Hôm đó.
Chúng ta đã lâu lắm mới tựa vào nhau, cùng nói những chuyện tầm phào.
Ta đem cả hầu phủ, từ người cha ích kỷ giả dối của hắn cho đến từng bậc thềm gồ ghề trong viện, mắng hết một lượt.
Hắn thì ngợi khen Ngô Châu, từ Mã đại ca chính trực nghĩa hiệp cho đến chiếc bát sứt trong tửu quán, tán dương không sót điều gì.
Cuối cùng, cả hai thống nhất: Ngô Châu vẫn là tốt nhất.
Tạ Hoài Cật ôm lấy ta, nói: “Đợi ta hồi phục có thể đi lại được, ta sẽ từ quan, đưa nàng trở về Ngô Châu.”
Ta tràn đầy mong chờ hỏi: “Vậy có cần rất lâu không?”
Hắn hứa hẹn: “Đảm bảo không lỡ mất thời điểm ủ rượu mộc tê.”
Đến lúc ấy, chúng ta sẽ ở trong ngôi nhà tại Ngô Châu, dùng rượu mộc tê ngọt lành xua tan mọi nỗi sầu nơi kinh đô.
Nhưng về sau, điều đó lại trở thành chuyện thứ ba mà hắn phụ lòng ta.
Vài ngày sau.
Ta lén rời khỏi hầu phủ đi hiệu thuốc lấy thuốc.
Trên đường trở về, gặp phải một cỗ xe ngựa phát cuồng vì kinh hoảng.
Chỉ trong chốc lát, tiếng vó ngựa dồn dập “lộc cộc” từ xa đến gần, rồi vụt qua.
Chỉ còn lại ta nằm bất động trên phiến đá xanh, hơi thở yếu ớt.
Bầu trời trong tầm mắt dường như đang chậm rãi sụp xuống.
Trong mơ hồ, ta nghe thấy tiếng sáo du dương vọng đến từ xa.
Đó là giai điệu dân ca quen thuộc của Ngô Châu.
Trong cái kinh thành rộng lớn này, e rằng chỉ có một người biết tấu khúc ấy.
Trước kia, Tạ Hoài Cật thường thổi sáo cho ta nghe mỗi khi cùng nhau đóng cửa tửu quán về nhà, vừa tấu khúc vừa cười nói với ta.
Ta cố sức đưa tay lên trời, muốn nắm lấy một tia âm thanh ấy.
Nhưng trời tối dần, tiếng sáo cũng theo đó mà biến mất.
Hoài Cật, Hoài Cật…
Phải làm sao đây?
Chúng ta dường như không thể trở về nhà nữa rồi.
10.
Đầu ngón tay ta vô thanh vô thức lướt khỏi khuôn mặt của Tạ Hoài Cật.
Năm năm qua, cuối cùng vẫn chẳng thể nắm lấy được.
Những tuyệt vọng khi cận kề cái chết trong ký ức dường như đã trở thành chuyện cũ.
Giờ đây, chỉ còn một người và một quỷ đối diện nhau mà ngồi.
Kể từ khi ra khỏi cung Thái hậu, lên xe ngựa, Tạ Hoài Cật liền nhắm mắt dưỡng thần.
Ta chăm chú nhìn khuôn mặt quen thuộc mà giờ đây đã trở nên xa lạ của hắn, nhớ lại những tháng ngày đã qua.
Vẫn nghĩ mãi không thông.
Hắn sao lại trở thành một gian thần bị người người phỉ nhổ?
Hôm nay, khi vừa tỉnh lại, ta đã bị một lão giả tóc trắng râu bạc chỉ vào mũi mà giận dữ mắng:
“Gian thần nắm quyền, nước nhà chẳng còn!”
Chỉ trong chớp mắt, ông ta đã bị hai tên thị vệ cưỡng ép, kéo đi ra ngoài.
Xung quanh tiếng người xôn xao, nhỏ như tiếng muỗi vo ve.
Nhưng ta lại nghe rõ từng chữ.
“Haizz, đây đã là vị thứ ba trong tháng này bị bãi quan vì dâng tấu vạch tội An Viễn hầu.”
“Hoàng đế còn nhỏ, trung gian bất phân, lại để kẻ tiểu nhân như thế này nắm quyền!”
“Sinh sát trong tay, tất cả đều theo ý hắn. Có kẻ nịnh thần như thế, quốc vận khó mà yên ổn!”
…
Trong đại điện, ánh mắt của mọi người, hoặc rõ ràng, hoặc kín đáo, đều dồn về phía ta.
Có sự nghi kỵ, chán ghét, nịnh nọt.
Nhưng nhiều nhất vẫn là nỗi sợ hãi.
Ta chậm chạp quay đầu lại, đột ngột chạm vào một ánh mắt lạnh lẽo như vực sâu thăm thẳm.
“Hoài Cật?”
Người đàn ông chẳng buồn đáp lời, chỉ thờ ơ quét mắt khắp đại điện.
Mỗi nơi ánh mắt hắn lướt qua, quần thần đều lặng ngắt như tờ.
Thì ra, điều họ sợ lại chính là phu quân của ta.
Nhưng Tạ Hoài Cật lúc này, rõ ràng đã hoàn toàn khác biệt với người trong ký ức của ta.
Năm năm qua, rốt cuộc hắn đã trải qua những gì, để tính tình thay đổi đến mức này?
11.
“Về đến phủ rồi, hầu gia.”
Xe ngựa đột ngột dừng lại, Tạ Hoài Cật chậm rãi mở mắt.
Ta theo hắn xuống xe, phủ Bình Dương hầu ngày xưa, nay đã trở thành An Viễn hầu phủ của Tạ Hoài Cật.
Ngẫm lại, từng có đại thần trong triều nói Tạ Hoài Cật vô tình vô nghĩa.
Hai năm trước, hắn tự tay xử lý phụ thân đã đoạn tuyệt quan hệ với mình, Bình Dương hầu cùng cả gia quyến, với tội danh mưu phản mà tịch biên gia sản, lưu đày.
Trong hầu phủ, từng ngọn cỏ nhành cây, thoạt nhìn chẳng khác gì so với năm năm trước.
Cho đến khi ta theo chân hắn bước vào tiểu viện mà chúng ta từng ở.
Ở đó, ta nhìn thấy một cỗ quan tài, cùng bài vị của chính mình.
Ta kinh ngạc, thầm nghĩ vì sao hắn đến giờ vẫn chưa hạ táng ta, thì đột nhiên thấy hắn trước mặt ta, bắt đầu cởi áo.
Đầu tiên là triều phục.
Sau đó là trung y.
Khi Tạ Hoài Cật cởi bỏ y phục, mày hắn hơi nhíu lại, dường như nhớ ra điều gì.
Trong mắt thoáng qua một tia chán ghét.
Chẳng bao lâu sau, lồng ngực rắn chắc của hắn đã lộ ra.
Trên cổ hắn, vẫn còn đeo mảnh trầm hương khắc hình hoa mộc tê mà ta từng tặng.
Thế nhưng, thân thể mà ta từng vô cùng quen thuộc nay lại xuất hiện vô số dấu vết xa lạ.
Các loại vết sẹo, lớn nhỏ, chằng chịt trên vai, lưng, cánh tay, và cả vùng ngực bụng của hắn.
Vết sẹo dài nhất kéo từ ngực trước ra sau lưng, gần như trí mạng.
Cánh tay trái còn quấn dày một lớp băng vải thấm máu.
Tạ Hoài Cật cởi băng, để lộ những vết thương cũ mới chằng chịt bên dưới.
Hắn cầm lấy con dao găm đặt trước bài vị, không chút do dự, rạch thêm một nhát lên cánh tay.
Sau đó, hắn đẩy nắp quan tài, để mặc máu nhỏ vào trong đó.
Chứng kiến cảnh tượng này, cuối cùng ta đã hiểu vì sao hắn chưa đưa ta hạ táng.
Năm xưa.
Trong tiệm rượu của phụ thân ta, từng có một tửu khách, trong cơn say men nồng, kể một câu chuyện như thế này:
Ở Nam Việt, có một nữ nhân vì tưởng nhớ phu quân vừa qua đời mà ngày đêm chẳng màng ăn uống.
Người nhà không đành lòng nhìn nàng tiều tụy, bèn mời một vị vu sư đến.
Vu sư nói với nàng một bí pháp thượng cổ.
Nếu có thể dùng máu nuôi xương, mỗi bảy ngày một lần, hồn phách của phu quân dưới cửu tuyền có thể cảm ứng được, hoặc có thể quay về nhân gian bằng thân hồn.
Nữ nhân nghe lời, làm đúng như vậy suốt ba năm, cuối cùng, vào một đêm nọ, nàng mơ thấy phu quân đã khuất.
Người đàn ông nói với thê tử, mình đã luân hồi chuyển kiếp, còn kể lại đặc điểm của hình hài khi đầu thai cùng gia đình mà mình được sinh ra.
Về sau, nữ nhân ấy quả thực tìm được đứa trẻ đúng như lời phu quân đã kể.
Khi ấy, các khách trong tiệm rượu đều không mấy tin tưởng câu chuyện này.
Thậm chí có người thẳng thắn nói: “Ba năm không tái giá, sợ rằng nữ nhân ấy chỉ vì giữ thể diện mà tự bịa ra thôi.”
Người tửu khách nghe vậy cũng chẳng tức giận, chỉ trả tiền rượu cho ta rồi loạng choạng bước ra cửa.
Trước khi rời đi, hắn đột nhiên cúi đầu, nói vài câu bằng tiếng Nam Việt.