07
Vào mùa thu năm thứ hai sau khi ta theo hắn rời nhà, hắn cuối cùng cũng xuất chinh.
Gió thu mát lạnh như nước, tựa như quang cảnh lần đầu chúng ta gặp nhau.
Trước khi đi, hắn rón rén rời giường, khẽ hôn Thanh Uyển, rồi lại hôn ta.
Sợ đánh thức chúng ta, hắn ôm áo giáp ra sân để mặc.
Đêm khuya giá rét như thế, hắn chỉ mặc một lớp áo lót rồi mở cửa ra.
Cuộc chia ly diễn ra trong im lặng, hắn không muốn thấy ta rơi lệ.
Ta vốn là một người câm, chỉ có thể lặng lẽ mà rơi nước mắt.
Ta ép mình nhắm mắt lại, cho đến khi nghe thấy tiếng kèn hiệu lệnh xuất quân, không thể kiềm được mà bật dậy, chạy ra ngoài.
Con đường dài đầy những người già, phụ nữ và trẻ nhỏ đến tiễn biệt, họ mang gương mặt giống hệt ta…..
Gan ruột như đứt từng khúc, nước mắt chảy dài.
Lúc này đây, tất cả gia quyến đều trở thành những người câm, không nói nổi một chữ, chỉ còn lại ánh mắt dõi theo đến mòn mỏi.
Rõ ràng họ chưa đi xa, nhưng trong lòng người ở lại, nỗi nhớ đã sớm bắt đầu.
Đội quân hùng vĩ tiến bước, ta cầm một chiếc khăn tay, định đưa cho Bùi Xuân Sơn để được nhìn hắn thêm một lần.
Nhưng người quá đông, đến khi ta chen được lên phía trước, đã là đội ngũ cuối cùng, không thấy bóng dáng Bùi Xuân Sơn đâu nữa.
Có một lão hán gầy gò, thấp bé, trông hơi giống phụ thân ta, ta cuối cùng đưa chiếc khăn tay ấy cho ông.
Ta không biết ông là phu quân, là phụ thân của ai.
Chỉ mong tất cả họ đều bình an trở về.
Đây là lần đầu tiên ta chờ đợi Bùi Xuân Sơn xuất chinh về nhà, không ngờ vừa đợi đã là hơn nửa năm.
Khi tính đến ngày thứ bảy tháng thứ bảy, ta gần như suy sụp.
Ta nhận thêm việc thêu thùa nặng nhọc, lật từng cuốn sách hắn từng đọc, viết đi viết lại những chữ hắn dạy ta, chỉ mong qua được từng giờ từng khắc.
Trịnh đại nương lo lắng, thường đến thăm ta.
Bà kể rằng, sau khi Bùi Xuân Sơn biết sự thật Thanh Uyển là muội muội ta, hắn đã giải thích rõ ràng với hàng xóm láng giềng.
Bà còn nói, hắn bảo rằng giấy tờ đất đai và nhà cửa của tiểu viện này đã sang tên ta từ lâu.
Nếu hắn chết nơi sa trường, đây chính là của hồi môn của ta.
Hắn nói ta vẫn là một người trong sạch, không ai được khinh thường ta.
Hóa ra hắn không chạm vào ta, không chỉ vì sợ làm ta tổn thương, mà còn vì lo ta sẽ khó tái giá.
Nhưng hắn chưa từng nhắc đến những điều này, chỉ muốn ta sống thoải mái, tự do bên hắn.
Nghe đến đây, ta không kìm được nước mắt, từng giọt rơi như mưa.
Dù là người khéo ăn nói như Trịnh đại nương, cuối cùng cũng chỉ biết thở dài:
“Hắn đối với ngươi đúng là tận tâm tận nghĩa. Không trách được ngươi không rời đi, cam chịu ở đây một mình chăm sóc muội muội, giữ lòng vì hắn cả đời.”
Nữ nhi gia không nhất thiết phải xuất giá. Ta nuôi được bản thân, cũng nuôi được muội muội. Không cần dựa vào ai để sống.
Ta không muốn gả đi, chỉ vì đã gặp được lương nhân, từ đó người khác đều thành người dưng, chẳng thể vào nổi lòng ta nữa.
Ta tiễn Trịnh đại nương, dỗ muội muội ăn cháo và ngủ say, rồi lấy một quyển sách, ngồi trước cửa nhà.
Ánh trăng ngày mười sáu tròn đầy, tỏa sáng đến mức từng chữ trên giấy đều rõ ràng.
Ta lại thấy những câu thơ chất chứa bao kỷ niệm:
“Đổ sách tiêu đắc bát trà hương, đương thời chỉ đạo thị tầm thường.”
“Tĩnh nữ kỳ thư, đãi ta vu thành ngung.”
“Hữu mỹ nhất nhân, thanh dương uyển hề.”
Đêm giao mùa xuân hạ, hoa lê rơi trắng như tuyết, hải đường tỏa sắc như gấm.
Khắp nơi tràn đầy sức sống, nhưng ta lại chìm trong ký ức hỗn độn, tựa như đã hóa thành cây khô.
Đúng lúc ta thất thần, một giọng nói quen thuộc và trong trẻo vang lên từ cổng viện:
“Trăng sao đẹp đến thế, cô nương lại vì ai mà đứng ngóng giữa trời khuya?”
Ta bật dậy, đến mức cuốn sách rơi xuống đất cũng không hay.
Hắn đã trở về, thân hình cao lớn sải bước về phía ta, nước mắt ta tuôn trào, ta lao đến, ôm chầm lấy hắn.
“Thức vi, thức vi, hồ bất quy?
Vi quân chi cố, hồ vi hồ trung lộ?”
Dịch:
Suy nghĩ mãi, nghĩ mãi, sao người chẳng quay về?
Vì chàng mà ra đi, cớ sao lại lạc giữa đường?
Ta vùi mặt vào ngực hắn, nước mắt đẫm áo, còn hắn tựa đầu vào vai ta, cười ngốc nghếch.
“Tĩnh Thư, ta đã về, ta đã về rồi.”
“Tĩnh Thư, ta nhớ nàng lắm, ta nhớ nhà lắm…”
Ta khóc đến mệt mới ngẩng đầu, vừa nhìn rõ khuôn mặt hắn, ta đã sững người ngay tại chỗ.
Ta ngửi thấy trên người hắn thoang thoảng mùi thảo dược nồng nặc, một mắt của hắn bị lớp vải trắng dày đặc che kín.
Ta run rẩy giơ tay, chỉ về phía con mắt bị thương của hắn.
Nhưng Bùi Xuân Sơn chỉ ngốc nghếch cười, nói: “May là ta còn một con mắt, để nhìn những điều nàng viết.”
Ta lại không kìm được, nước mắt tuôn như mưa, bị hắn kéo vào lòng.
“Không đau chút nào đâu, Tĩnh Thư, đừng buồn mà…”
Làm sao mà không đau được? Ngươi chỉ là người cao lớn hơn người khác một chút, đâu phải đao thương bất nhập…
Ta kéo hắn vào nhà, rót cho hắn một chén nước nóng.
Thấy ta định đi chuẩn bị nước tắm, hắn vội nắm lấy tay ta, ép ngồi xuống ghế: “Tĩnh Thư ngoan, để ta nhìn kỹ nàng trước đã, xem nàng có phải gầy đi không. Chuyện khác để sau, được không?”
Ta gật đầu, dưới sự trấn an của hắn dần bình tĩnh lại.
Nhìn khuôn mặt bị thương của hắn, ta chợt nhớ đến lần đầu tiên gặp hắn.
Khi đó ta từng nghĩ, nếu vết thương kia sâu hơn một chút, có lẽ sẽ làm mù mắt hắn. Không ngờ suy nghĩ khi ấy lại thành sự thật.
May mắn thay, hắn lại mang đến tin tốt lành: “Tĩnh Thư, thiếu tướng quân của chúng ta thật sự là người tốt. Ngài đã cho phép những binh sĩ tàn tật, không có huynh đệ, không có con cái như ta, được giải ngũ về quê, còn cấp một khoản thưởng lớn đủ để chúng ta mở một cửa hàng buôn bán nhỏ.”
Hắn hiếm khi kể chuyện trong quân doanh, nhưng chỉ cần nhắc đến vị thiếu tướng quân ấy, hắn luôn có rất nhiều điều muốn nói.
Hắn kể rằng có một người đồng hương tên là “Thụy Tuyết,” là thị vệ trong phủ thiếu tướng quân. Lần xuất chinh này, người đó bị mất một chân, nhưng may mắn giữ được tính mạng.
“Thiếu tướng quân đã đem một cửa hàng trong nhà mình cho Thụy Tuyết quản lý, đủ để hắn không lo cơm áo suốt quãng đời còn lại. Lúc ta chia tay hắn, hắn bảo rằng mình cũng có một người trong lòng, ngày đêm mong nhớ. Nàng xem, những người như chúng ta, giết người không chớp mắt, thực ra trong lòng lại mềm yếu như thế.”
Nghe giọng nói hào sảng của hắn, ta dần yên tâm hơn, nước mắt ngừng rơi lúc nào không hay, thay vào đó là nụ cười rạng rỡ.
Hắn cầm tay ta đặt lên môi, hơi thở nóng ấm làm ấm cả ngón tay lạnh giá của ta: “Chỉ là không biết, cô nương có chê ta giờ chỉ còn một mắt không?”
Ta giả vờ giận dữ, vẻ mặt tỏ ra ghét bỏ, mắt nhìn ra cửa, ý bảo hắn mau ra ngoài.
Hắn lập tức tỏ vẻ lưu manh, ôm ta vào lòng: “Ta không đi đâu cả, chỉ nguyện làm gã gia đinh trông cửa, gánh nước, quét sân cho cô nương cả đời thôi…”
Hắn đã bù đắp cho ta một lễ thành hôn trịnh trọng và viên mãn, lần này, hắn không còn chút băn khoăn nào nữa.
08
Năm Thanh Uyển lên sáu, ta và Bùi Xuân Sơn sinh hạ một nữ nhi.
Chúng ta đã có kinh nghiệm chăm sóc Thanh Uyển, nên nữ nhi được nuôi nấng trắng trẻo mũm mĩm, ai gặp cũng khen đáng yêu.
Bùi Xuân Sơn một tay bế con gái, một tay dắt Thanh Uyển, quay đầu nhìn ta, cười nói: “Đó là vì con giống mẫu thân, trắng trẻo thanh tú. Nếu giống ta thì thật tệ rồi.”
Câu nói ấy khiến hàng xóm cười phá lên, còn trêu ta sinh thêm một đứa nữa, xem nếu giống Bùi Xuân Sơn sẽ ra sao.
Bùi Xuân Sơn lắc đầu, nói rằng nhìn ta sinh con đã khiến hắn sợ mất ăn mất ngủ mấy ngày, nhất định không để ta chịu khổ như vậy nữa.
Ta thích trẻ con, con cái đông đúc, gia đình sẽ càng vui vẻ. Tiệm may của chúng ta làm ăn khấm khá, tiền bạc dư dả nuôi thêm con cũng không thành vấn đề.
Thế là hơn hai năm sau, vào một đêm hè oi bức, ta cố ý mặc một chiếc áo mỏng, ôm sách dựa vào lòng hắn.
Mỗi lần lật một trang sách, ta lại khẽ cọ vào vai hắn một chút, cuối cùng khiến hắn không chịu nổi, cướp lấy sách rồi ép ta xuống giường.
Hắn hỏi ta vừa đọc gì, ta làm bộ vô tội, chỉ vào cổ họng, ra hiệu rằng ta không nói được, không thể trả lời hắn.
Hắn ngồi quỳ chân, cởi bỏ trường sam, kéo tay ta vòng qua lưng rộng của hắn, giọng khàn khàn, hơi thở bên tai nóng rực: “Vậy thì viết cho ta xem đi, nương tử…”
Thế là, chúng ta lại có một nhi tử.
Sau này, Thanh Uyển theo ta quản lý tiệm may. Nàng từ nhỏ đã ở bên cạnh ta, tính tình trầm lặng ít nói. Khi trưởng thành, nàng gả cho một thư sinh điềm đạm, hai người vô cùng xứng đôi.
Nữ nhi tuy nhỏ nhắn nhưng từ bé đã thích cưỡi ngựa bắn cung, học qua không ít quyền cước và binh khí.
Ngay cả Trịnh đại nương cũng nói:
“Nhìn trẻ con năm tuổi là biết phần nào tính cách khi trưởng thành. Ai mà ngờ nữ nhi của ngươi lớn lên lại đi làm tiêu sư cho tiêu cục.”
Còn tiểu nhi tử của chúng ta, vóc dáng cao lớn như Bùi Xuân Sơn, nhưng lại trầm lặng hơn cả Thanh Uyển. Hắn từ nhỏ đã lén nằm ngoài cửa thư viện nghe tiên sinh giảng bài.
Ta viết cho Bùi Xuân Sơn: “Chúng ta cho con đi học đi, để sau này nó lên kinh dự thi, làm văn quan, dâng lời hay vì dân chúng.”
Hắn cảm động nhìn ta: “Năm xưa ta chỉ thuận miệng nói, nàng lại ghi nhớ trong lòng.”
Đúng vậy, ta nhớ mãi ước mơ về cuộc sống yên bình vốn thuộc về hắn. Giờ để con trai đi trên con đường ấy, cũng coi như vơi bớt vài phần tiếc nuối của hắn.
Sau đó, nhi tử đề danh bảng vàng, vinh quy bái tổ.
Mùa trung thu năm ấy, Thanh Uyển đã có đủ nếp đủ tẻ, dẫn cả nhà về đoàn tụ.
Mọi người vừa uống rượu vừa cười nói, rồi bắt ta viết một câu chúc phúc.
Trong đám đông huyên náo, ta ngước nhìn Bùi Xuân Sơn, rồi viết:
“Nguyện hoa trường hảo, nhân trường kiện, nguyệt trường viên.”
Dịch: Nguyện hoa luôn tươi đẹp, người luôn mạnh khỏe, trăng luôn tròn đầy.
Hắn mỉm cười, ánh mắt hiểu ý, hẳn cũng giống ta, nhớ đến đêm trung thu năm đầu tiên chúng ta gặp nhau.
Quả nhiên, hắn đã làm đúng lời hứa năm nào, vì ta mà gánh nước cả đời, quét sân cả đời.
Hết.