1. “Bảng nhãn?”
Mưa xuân tí tách, sấm mờ ẩn hiện, ánh đèn trên án thư không sáng rõ.
Mẹ ta cầm chén trà nóng đưa lên môi, bị phỏng liền vội vàng đặt xuống, không thể tin nổi.
“Con ngay cả Đông cung cũng không để mắt tới, lúc nào cũng nói phải tìm người hợp nhãn duyên, suốt ngày nhắc đến ‘Nguyên gia ca ca,’ ta còn tưởng con đã để ý đến hắn.”
Tay đang sao chép kinh Phật của ta chợt khựng lại, ký ức về yến tiệc tại Kim Minh Trì ngày hôm qua hiện lên. Hoàng hậu a di, đùa rằng sẽ ban hôn cho ta.
Nguyên Tự Quan lại giữ vẻ lãnh đạm xa cách, dáng vẻ kính nhi viễn chi, tránh né ánh nhìn của ta, sợ ta chọn hắn.
Nghĩ kỹ lại, bất kể đời trước ta bệnh nặng hay những lần chung giường, hắn lúc nào cũng để lại cho ta một bóng dáng nghiêng lạnh lùng.
Nhưng khi ta như ý hắn, lướt qua mà chọn vị Bảng nhãn gầy gò ít nói, Nguyên Tự Quan lại bất ngờ nhìn chằm chằm vào ta.
Có lẽ hắn nghĩ ta muốn lấy cớ, cố tình chọn người khác để thu hút sự chú ý của hắn.
Hắn thậm chí còn lạnh lùng lườm ta, cảnh cáo ta đừng tùy tiện làm càn.
“Nếu đã không có ý với người khác, thì đừng đùa giỡn lung tung. Triệu huynh gia thế nghèo khó, nhân phẩm chính trực, lòng dạ chỉ để ở triều đình, nếu cưới vợ cũng sẽ không đời nào chọn một tiểu thư kiêu căng như ngươi.”
Hắn như thể nghĩ rằng, hắn không để mắt tới ta, thì cả thiên hạ này cũng giống như hắn.
Nhưng hắn có thể yên tâm, đời này ta nhất quyết sẽ không chọn hắn nữa.
Ngòi bút dừng lại, kinh Phật sao chép đầy lỗi sai.
Ta đặt bút xuống, ném bản kinh bị chép lỗi vào lò hương, mỉm cười nói: “Nữ nhi không phải tùy hứng, chỉ là phát hiện ra Nguyên gia ca ca đã có ý trung nhân mà thôi.”
Mẹ ta ngạc nhiên: “Sao ta chưa từng nghe qua chuyện này.”
Ngoài cửa sổ, gió mưa ào ào, sương mù lùa qua hải đường, cảnh vật mờ mịt.
Ta đỡ mẹ đứng dậy: “Chính là hôm yến thọ của lão phu nhân nhà họ Nguyên. Có một nha hoàn bên cạnh Nguyên Tự Quan vô ý làm đổ trà lên giày của con, sợ hãi đến mức quỳ xuống khóc lóc. Con rất khó hiểu, rõ ràng chưa ai trách mắng nàng, tại sao nàng lại khóc? Nguyên Tự Quan lúc đó sắc mặt cũng rất khó coi.
“Sau đó, con mới nghe từ Nguyên tỷ tỷ rằng nha hoàn ấy đã theo hắn nhiều năm, từng chịu khổ không ít khi nhà họ Nguyên sa sút.
“Nguyên lão phu nhân thậm chí còn hứa hẹn sẽ cho nàng một danh phận. Nếu con xin a di ban hôn, nhà họ Chương chúng ta lại có quy củ ‘phu quân không được nạp thiếp,’ thì cả đời nàng ấy sẽ không còn hy vọng.”
Kiếp trước, để lấy lòng ta, nhà họ Nguyên còn định tùy tiện gả nàng cho một gã sai vặt nghèo khổ rồi đuổi về quê.
Mẹ ta im lặng.
Hai nhà là thế giao, hiểu rõ gốc rễ, kỳ thực đã bàn bạc xong xuôi, chỉ đợi Nguyên Tự Quan đỗ đạt là lập tức định hôn.
Trong mắt mẹ ta, tính tình ta cao ngạo, chỉ biết đắm chìm trong cầm kỳ thư họa, không hỏi đến thế sự. Có một phu quân như Nguyên Tự Quan, trầm ổn, biết kiềm chế, chẳng phải là chuyện tốt hay sao?
Bà hơi do dự.
“Việc này ta cũng có nghe qua. Nhưng ta đã hỏi Nguyên Tự Quan, hắn nói với ta rằng hắn chỉ có ân nghĩa với nha hoàn kia, không có tình cảm, sau này cũng sẽ sắp xếp ổn thỏa. Như vậy xem ra, hắn cũng là người xử sự đàng hoàng, không khiến con khó xử.”
Mẹ nhìn ta.
“Trinh nhi, con không phải vẫn luôn thích hắn sao? Hay là suy nghĩ thêm một chút?”
Ta lắc đầu, đưa tay ra ngoài hành lang, hứng lấy làn gió mưa lạnh lẽo.
Hai chữ “tình nghĩa,” vốn dĩ chẳng thể tách rời.
Nếu không, hắn cũng sẽ chẳng bất chấp lễ pháp, lén lút giấu người trong Phật đường ở hậu viện suốt mười mấy năm, che giấu toàn phủ, khiến ta không hay không biết.
Thậm chí còn có cả một đứa con trai thi đỗ Cử nhân.
Chỉ đợi ta chết đi, hai mẹ con bọn họ sẽ danh chính ngôn thuận trở về.
Thật nhẫn nhịn, thật tâm cơ. Một phu quân như vậy, ta không có phúc hưởng thụ.
2. Ta quyết định gả cho vị Bảng nhãn họ Triệu nghèo kiết xác, ngay cả cữu cữu cũng cảm thấy bất ngờ.
“Trinh nhi của chúng ta đúng là tâm tư thay đổi còn nhanh hơn cả mặt trăng, mỗi ngày một kiểu.”
Trong cơn mưa lất phất lúc hoàng hôn, cữu cữu Lục Giới của ta gấp ô bước vào.
“Hồi nhỏ còn khóc lóc đòi gả cho cữu cữu, giờ đây đến cả Thám hoa cũng không để mắt, chỉ muốn gả cho Bảng nhãn.”
Cữu cữu cười, như ánh trăng sáng trong, tươi đẹp chói lòa.
Ta bỗng ngẩn người.
Cữu cữu lúc này, dung nhan tuấn tú chưa bị gió cát bào mòn, mái tóc đen nhánh chưa điểm sương.
Tuổi trẻ đương độ, như một ánh chớp lóe qua ngọn đèn kéo quân, đẹp đẽ tựa giấc mộng phù du.
Chẳng giống cữu cữu lúc lâm chung, tiều tụy đến mức tóc mai đều bạc trắng.
Kiếp trước đã xảy ra quá nhiều chuyện.
Cha mẹ mất sớm, a di treo cổ tự tử, cữu cữu trong triều mấy lần thăng biếm chìm nổi.
Người thân như lá mùa thu rơi rụng dần. Ta không chịu nổi nỗi đau, trốn vào cầm kỳ thư họa để tê liệt bản thân, bị sự giả dối của nhà họ Nguyên mê hoặc.
Ngày ngày hồ đồ, đến lúc lâm chung mới biết Nguyên Tự Quan còn có một đứa con trai.
Một đời trôi qua như một trò cười. Nhưng lại hoang đường đến cười không nổi.
“Trinh nhi?” Cữu cữu đi tới, hỏi: “Ta hỏi con, vì sao lại để mắt tới Triệu Ký Thành?”
Ta hoàn hồn, nhân lúc lau nước mưa bắn lên người, dùng khăn che đôi mắt hơi đỏ, cười đáp:
“Cữu cữu cứ nói xem, Triệu Ký Thành tốt hay không tốt là được.”
“Hừm…”
Cữu cữu trầm ngâm.
“Có thể đỗ Bảng nhãn, dĩ nhiên là có tài cán. Tuy ít nói, nhưng trong lời lẽ lại có lòng trung trinh tiết nghĩa, được Từ đại nhân nhìn trúng mà tiến vào Vệ Úy phủ.”
Cữu cữu rõ ràng rất khen ngợi, nhưng lời nói lại chuyển hướng:
“Chỉ là người này quá nghèo! Xuất thân Lương Châu, trên không có cha mẹ thân tộc nâng đỡ, dưới không có huynh đệ tỷ muội giúp sức, hai bàn tay trắng. Ngoài bộ quan phục, trên người không có một bộ y phục nào lành lặn. Làm sao nuôi nổi con đây?”
Ta cúi đầu nhìn cánh chim trên khăn lụa, khẽ nói: “Trung trinh. Con chỉ cần một chữ trung trinh ấy, ngoài ra, chẳng cần gì nữa.”
Cữu cữu nhìn ta với ánh mắt đầy nghi hoặc.
Ông không biết rằng, ở kiếp trước, chẳng bao lâu sau khi ta gả vào Nguyên gia, Lạc Thành đã xảy ra biến loạn do Ngũ vương tạo phản. Hà Gian vương cấu kết với kỵ binh của tộc Tiên Ty Đoạn Bộ.
Hoàng thượng bị bắt, Thái tử biểu ca của ta bị giết hại.
Khi ấy, cha mẹ ta đang thủ thành ở biên cương phía Bắc, đối phó với sự nhòm ngó của Hồ nhân, chiến sự căng thẳng đến mức kiệt quệ, không hề hay biết gì về nguy cơ tại Lạc Thành.
Các thế gia đại tộc vội vàng đưa cả gia tộc di cư xuống phương Nam. Trong triều đình, không một ai dám nhận thư cầu cứu đầy máu của a di ta. Ngay cả Nguyên Tự Quan, người vẫn luôn miệng nói về trung hiếu tiết nghĩa cũng chọn cách im lặng, cắn răng chịu đựng.
Chỉ một người có quan vị nhỏ nhoi đứng ra khỏi đám đông đang cúi đầu, dáng người gầy guộc nhưng ánh mắt kiên định.
“Nương nương, thần xin đi.”
Khi đó, ta đứng sau bức bình phong, khắc sâu hình ảnh người ấy vào tâm trí. Đôi mắt kia tựa như đang nói: “Dẫu có cả vạn người ngăn cản, ta vẫn tiến tới.”
Triệu Ký Thành chỉ mang theo hai mươi người, tay không tiến thẳng vào tuyến phòng thủ ở biên cương phía Bắc. Nhưng khi ấy, triều đình đã sụp đổ quá nhanh, đến lúc hắn mang thư máu tới Bắc cương, chỉ còn nhìn thấy những tòa thành chết.
Khắp nơi đầy xác người chet đói, ngàn dặm không bóng người. Trên tường thành, đầu của cha mẹ ta bị treo lủng lẳng.
Hắn không chọn quay về Giang Nam cùng đám người còn lại, mà dọc đường thu nạp dân lưu lạc, thành lập “Quân Cầu Sinh.” Dẫu khó khăn, gian khổ tới đâu, hắn vẫn giữ vững mười hai thành Bắc cương, dù mất một cánh tay cũng không để kỵ binh Hồ nhân một lần nữa giẫm đạp biên giới Bắc cương.
Sau này, khi Nam triều ổn định, cữu cữu mang quân đến Bắc cương. Triệu Ký Thành còn cẩn thận giữ lại hai lá bùa bình an có thêu nhũ danh của ta từ thi hố để giao lại cho ông.
Cả đời hắn không lấy vợ, không có con, dành hết tâm huyết để phục hồi trung nguyên. Chưa đầy ba mươi tuổi, hắn đã mệt mỏi đến mức chết vì trầm uất.
Chỉ dựa vào ân tình hắn chôn cất thi thể cha mẹ ta, đời này ta nhất định phải báo đáp hắn.
Thế nhưng cữu cữu lại dội cho ta một gáo nước lạnh: “Nhưng con muốn hắn, không có nghĩa là hắn cũng muốn con đâu.”
Ta sững sờ.
Ý cữu cữu là gì?